PHÊ PHÁN NĂNG LỰC PHÁN ĐOÁN (MỸ HỌC VÀ MỤC ĐÍCH LUẬN)
CHƯƠNG II
BIỆN CHỨNG PHÁP CỦA NĂNG LỰC PHÁN ĐOÁN MỤC ĐÍCH LUẬN
IMMANUEL KANT (1724-1804) BÙI VĂN NAM SƠN dịch
Immanuel Kant. Phê phán năng lực phán đoán (Mỹ học và Mục đích luận). Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải. Hà Nội: Nxb. Tri Thức, 2006, tr. 399-440. | Phiên bản đăng trên triethoc.edu.vn đã được sự đồng ý của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn.
§69 THẾ NÀO LÀ MỘT NGHỊCH LÝ (ANTINOMIE) CỦA NĂNG LỰC PHÁN ĐOÁN? Năng lực phán đoán xác định, tự nó, không có các nguyên tắc làm cơ sở cho các khái niệm về những đối tượng. Năng lực ấy không có sự tự trị (Autonomie), vì nó chỉ thâu gồm (subsummiert) dưới các định luật hay các khái niệm đã cho, như là các nguyên tắc. Do đó, nó không bị vướng vào mối nguy hiểm của một nghịch lý (Antinomie) của chính nó hay vướng vào một sự tranh chấp giữa các nguyên tắc của nó. Cho nên [ta đã thấy rằng] năng lực phán đoán siêu nghiệm – chứa đựng các điều kiện của việc thâu gồm vào dưới các phạm trù – tự nó là không có tính đơn đề (monothetic)* mà chỉ nêu các điều kiện của trực quan cảm tính để, dưới các điều kiện ấy, thực tại (sự áp dụng) có thể được mang lại cho một khái niệm được cho, với tư cách là quy luật của giác tính; và, trong việc này, năng lực phán đoán không bao giờ có thể bị rơi vào sự không nhất trí với chính mình (ít ra trong chừng mực liên quan đến các nguyên tắc của nó). Trong khi đó, năng lực phán đoán phản tư phải thâu gồm vào dưới một quy luật chưa được mang lại [chưa có sẵn], và, vì thế, trong thực tế, chỉ là một nguyên tắc của sự phản tư về những đối tượng, mà, về mặt khác quan, ta hoàn toàn còn thiếu một quy luật hay một khái niệm về một đối tượng có thể tương ứng hoàn toàn như là một nguyên tắc cho các trường hợp đang xảy ra. Song, vì lẽ các quan năng nhận thức không được phép sử dụng mà không có các nguyên tắc, nên, trong các trường hợp ấy, năng lực phán đoán phản tư phải dùng chính mình làm nguyên tắc. | Nguyên tắc này, vì không có tính khách quan và không thể cung cấp cơ sở nào cho việc nhận thức về đối tượng một cách đầy đủ đúng với ý đồ, nên chỉ phục vụ như là một nguyên tắc đơn thuần chủ quan cho việc sử dụng hợp mục đích các quan năng nhận thức của ta, nghĩa là cho việc phản tư về một loại các đối tượng nào đó. Vì thế, đối với các trường hợp ấy, năng lực phán đoán phản tư có các châm ngôn của mình – và là các châm ngôn tất yếu – hướng đến việc nhận thức các định luật tự nhiên ở trong kinh nghiệm, nhằm nhờ chúng mà vươn đến các khái niệm, cho dù là các khái niệm [thuần lý] của lý tính, bởi nó tuyệt đối cần đến các khái niệm như thế chỉ để nhận thức giới Tự nhiên dựa theo những định luật thường nghiệm của nó mà thôi – giữa các châm ngôn tất yếu này của năng lực phán đoán phản tư có thể có một sự tranh chấp, và, do đó, một nghịch lý làm cơ sở cho một phép biện chứng [lừa bịp]. | Nếu một trong hai châm ngôn này có cơ sở ở trong bản tính tự nhiên của các quan năng nhận thức, ta có thể gọi đó là một phép biện chứng tự nhiên và là một ảo tưởng không thể tránh khỏi mà ta phải phơi bày ra và giải quyết nó ở trong công cuộc phê phán của chúng ta để, kỳ cùng, nó không còn lừa gạt ta nữa.
§70 TRÌNH BÀY VỀ NGHỊCH LÝ NÀY Trong chừng mực lý tính (Vernunft) phải làm việc với giới Tự nhiên xét như tổng thể của những đối tượng của các giác quan bên ngoài, nó có thể, một phần, dựa trên những định luật do bản thân Giác tính (Verstand) đề ra một cách tiên nghiệm (a priori) cho Tự nhiên; phần khác, lại dựa trên những quy luật mà nó [lý tính] có thể mở rộng đến vô định thông qua những sự quy định thường nghiệm xuất hiện ở trong kinh nghiệm. Để áp dụng loại định luật trước, tức những định luật phổ biến về giới Tự nhiên vật chất nói chung, năng lực phán đoán không cần có nguyên tắc phản tư đặc biệt nào cả, vì ở đây, nó có chức năng xác định (bestimmend), bởi lẽ một nguyên tắc khách quan đã được mang lại cho nó thông qua giác tính. Nhưng, liên quan đến những quy luật đặc thù mà ta chỉ có thể biết được bằng kinh nghiệm, thì ở đây có thể có nơi chúng một tính đa tạp và dị loại quá lớn khiến cho năng lực phán đoán phải dùng nguyên tắc của chính mình nhằm nghiên cứu và tìm tòi những hiện tượng của Tự nhiên tương ứng với một quy luật. | Năng lực phán đoán cần đến một manh mối hướng dẫn như thế, nếu muốn có hy vọng đạt được một nhận thức thường nghiệm có sự nối kết nhất quán dựa theo một tính hợp quy luật xuyên suốt, trọn vẹn của Tự nhiên đối với quy luật, cho dù sự thống nhất của Tự nhiên chỉ tuân theo những định luật thường nghiệm. Trong sự thống nhất hay nhất thể bất tất này của những định luật đặc thù, có thể xảy ra tình hình: năng lực phán đoán tiến lên từ hai châm ngôn trong sự phản tư của nó. | Một châm ngôn được mang lại một cách tiên nghiệm từ giác tính đơn thuần, còn châm ngôn kia là do những kinh nghiệm đặc thù đẩy lý tính vào cuộc nhằm hình thành một phán đoán về giới Tự nhiên vật thể cùng với những định luật của nó dựa theo một nguyên tắc đặc thù. Điều này dẫn tới chỗ hai loại châm ngôn này dường như không thể cộng tồn bên cạnh nhau; và do đó, nảy sinh một phép biện chứng dẫn dắt năng lực phán đoán vào con đường lầm lạc trong nguyên tắc của sự phản tư của nó. Châm ngôn thứ nhất của năng lực phán đoán là mệnh đề: phải phán đoán rằng: mọi việc tạo ra những sự vật vật chất và những hình thức của chúng là chỉ có thể có được dựa theo những định luật đơn thuần cơ giới. Châm ngôn thứ hai là phản-mệnh đề: không thể phán đoán rằng: một số sản phẩm của giới Tự nhiên vật chất là có thể có được dựa theo những định luật đơn thuần cơ giới. (Muốn phán đoán về chúng, cần có một tính nhân quả hoàn toàn khác, đó là, tính nhân quả của những nguyên nhân mục đích). Vậy, nếu các nguyên tắc có tính điều hành (regulativ) trên đây trong việc nghiên cứu bị đảo ngược thành những nguyên tắc có tính cấu tạo (konstitutiv) về khả thể của những đối tượng, chúng sẽ có dạng sau đây: Mệnh đề [Chính đề]: Mọi việc tạo ra những sự vật vật chất là có thể có được dựa theo những định luật đơn thuần cơ giới. Phản-mệnh đề [Phản đề]: Một số việc tạo ra những sự vật vật chất là không thể có được dựa theo những định luật đơn thuần cơ giới. Hai mệnh đề tương phản này, xét như các nguyên tắc khách quan cho năng lực phán đoán xác định, ắt sẽ mâu thuẫn với nhau, và, do đó, một trong hai nhất định phải sai. Đúng là, trong trường hợp đó, ta có một nghịch lý (Antinomie) nhưng không phải của năng lực phán đoán mà là một sự xung đột trong việc ban bố quy luật của lý tính. Nhưng, lý tính không thể chứng minh nguyên tắc này lẫn nguyên tắc kia, vì ta không thể có nguyên tắc có tính xác định nào về khả thể của những sự vật dựa theo những định luật đơn thuần thường nghiệm của Tự nhiên một cách tiên nghiệm được cả. Ngược lại, xét các châm ngôn nêu trên đây của năng lực phán đoán phản tư, chúng lại không chứa đựng một mâu thuẫn nào hết. Bởi nếu tôi nói: tôi phải phán đoán về khả thể của mọi sự kiện trong giới Tự nhiên vật chất chỉ dựa theo những định luật đơn thuần cơ giới, và, do đó, về mọi hình thức xét như những sản phẩm của nó, tôi không hề muốn nói rằng: chúng chỉ có thể có trong cách này mà thôi (loại trừ bất kỳ tính nhân quả nào khác), trái lại, tôi chỉ muốn lưu ý rằng: tôi lúc nào cũng phải phản tư về chúng dựa theo nguyên tắc về cơ chế máy móc của Tự nhiên, và, do đó, nghiên cứu cơ chế này trong mức độ có thể làm được, vì, nếu tôi không lấy nó làm cơ sở cho việc nghiên cứu thì không thể có tri thức nào về Tự nhiên được cả. Nhưng, điều này lại không hề ngăn cản tôi, khi có cơ hội, hướng theo châm ngôn thứ hai trong trường hợp của một số hình thức tự nhiên nào đó (và kể cả đối với toàn bộ giới Tự nhiên) để phản tư về chúng dựa theo nguyên tắc về các nguyên nhân mục đích; nguyên tắc này là cái gì hoàn toàn khác với việc giải thích chúng dựa theo cơ chế [máy móc] của Tự nhiên. Như thế, sự phản tư dựa theo châm ngôn thứ nhất không vì thế mà bị phế bỏ, tóm lại, ta buộc phải theo nó trong mức độ ta có thể làm được và cũng không có nghĩa là những hình thức này là không thể có được dựa theo cơ chế của Tự nhiên. Ta chỉ khẳng định rằng: lý tính con người, nếu [chỉ] tuân theo châm ngôn này và bằng cách này, ắt sẽ không bao giờ tìm ra được cơ sở tối hậu cho những gì tạo nên đặc điểm của một mục đích tự nhiên, mặc dù nó vẫn tăng tiến các nhận thức khác về những định luật tự nhiên. | Ở đây vẫn còn bỏ ngỏ và không quyết định xem ở trong cơ sở nội tại của Tự nhiên mà ta không biết được, sự nối kết vật lý-cơ giới và sự nối kết mục đích có thể hợp nhất được nơi cùng một sự vật trong một nguyên tắc [chung] hay không. | Ta chỉ nói rằng lý tính của ta không có năng lực để hợp nhất chúng lại, và, vì thế, năng lực phán đoán phản tư (từ các cơ sở chủ quan) chứ không phải xác định (theo một nguyên tắc khách quan về khả thể của những vật-tự thân) buộc phải suy tưởng một nguyên tắc khác với nguyên tắc về cơ chế tự nhiên như là cơ sở cho khả thể của một số hình thức nào đó trong Tự nhiên.
§71 CHUẨN BỊ SƠ BỘ ĐỂ GIẢI QUYẾT NGHỊCH LÝ (ANTINOMIE) TRÊN ĐÂY Ta không có cách nào chứng minh được sự bất khả của việc tạo ra những sản phẩm tự nhiên có tổ chức [hữu cơ] bằng cơ chế [máy móc] đơn thuần của Tự nhiên, vì ta không thể nhìn ra được cơ sở nội tại đầu tiên của sự đa tạp vô tận của những định luật tự nhiên đặc thù vốn là bất tất đối với ta bởi chúng chỉ được ta biết một cách thường nghiệm; và, do đó, ta không thể nào đạt đến nguyên tắc nội tại, hoàn toàn đầy đủ về khả thể của một giới tự nhiên được cả (nguyên tắc ấy như thế vốn nằm trong cái Siêu-cảm tính). Cho nên, câu hỏi sau đây là câu hỏi mà lý tính của ta – vốn bị giới hạn chật hẹp trong những gì liên quan đến khái niệm về tính nhân quả nếu phải xác định nó một cách tiên nghiệm – không thể nào giải đáp được: phải chăng năng lực tác tạo của Tự nhiên là đầy đủ vừa cho những gì được ta xem là hình thành hay kết hợp phù hợp với ý tưởng về các mục đích, vừa cho những gì được ta tin rằng chỉ cần đến “hệ thống đơn thuần máy móc” (Maschinen-wesen) của Tự nhiên; hoặc: phải chăng bên dưới những gì chúng ta nhất thiết phải xem như là những mục đích tự nhiên đích thực có một loại tính nhân quả căn nguyên hoàn toàn khác làm cơ sở cho vạn vật vốn không nằm trong giới Tự nhiên vật chất lẫn trong cái cơ chất khả niệm của nó, tức phải chăng có một Trí tuệ cấu trúc (architektonischer Verstand)? – Nhưng, điều rất rõ ràng và không thể nghi ngờ là: đối với các quan năng nhận thức của ta, cơ chế [máy móc] đơn thuần của Tự nhiên cũng không thể cung cấp cơ sở để giải thích cho việc tạo ra những thực thể có tổ chức. Vì thế, đối với năng lực phán đoán phản tư, mệnh đề hoàn toàn đúng đắn là: trước sự nối kết rõ ràng giữa những sự vật dựa theo các nguyên nhân mục đích, buộc phải suy tưởng về một tính nhân quả khác với tính nhân quả của cơ chế máy móc, nghĩa là, về một nguyên nhân (trí tuệ) của thế giới hoạt động phù hợp với những mục đích, cho dù mệnh đề ấy là quá vội vã và không thể chứng minh được đối với năng lực phán đoán xác định. Trong trường hợp trước [đối với năng lực phán đoán phản tư], mệnh đề ấy chỉ là một châm ngôn đơn thuần của năng lực phán đoán, nơi đó khái niệm về tính nhân quả như thế chỉ là một ý tưởng đơn thuần mà ta tuyệt nhiên không thể ban cho nó tính thực tại (Realität), trái lại, chỉ dùng nó như một manh mối định hướng cho sự phản tư vốn bao giờ cũng mở ngỏ trước mọi cơ sở lý giải theo cơ chế tự nhiên và không được thoát ly khỏi thế giới cảm tính. | Trong trường hợp sau [đối với năng lực phán đoán xác định], mệnh đề ấy hóa ra là một nguyên tắc khách quan do lý tính đề ra để buộc bản thân năng lực phán đoán xác định phải phục tùng, mà như thế thì năng lực phán đoán đã thoát ly khỏi thế giới cảm tính để bước vào cái Siêu việt và có lẽ sẽ bị dẫn dắt vào chỗ lầm lạc. Vậy, mọi dáng vẻ của một nghịch lý (Antinomie) giữa các châm ngôn của lối giải thích vật lý thực sự (cơ giới) và lối giải thích mục đích luận là do điều sau đây: ta đã lẫn lộn một mệnh đề cơ bản của năng lực phán đoán phản tư với một mệnh đề cơ bản của năng lực phán đoán xác định; và lẫn lộn sự tự trị (Autonomie) của cái trước (chỉ có giá trị chủ quan đơn thuần cho việc sử dụng lý tính của ta đối với những định luật thường nghiệm đặc thù) với sự ngoại trị (Heteronomie) của cái sau, tức cái phải tự hướng theo các quy luật (phổ biến hay đặc thù) do giác tính mang lại cho nó.
§72 VỀ CÁC HỆ THỐNG KHÁC NHAU LIÊN QUAN ĐẾN TÍNH HỢP MỤC ĐÍCH CỦA TỰ NHIÊN Không ai còn nghi ngờ về sự đúng đắn của mệnh đề cho rằng: đối với một số sự vật của Tự nhiên (những thực thể có tổ chức) và khả thể của chúng, ta phải phán đoán dựa theo khái niệm về các nguyên nhân mục đích, cho dù ta chỉ muốn có một manh mối hướng dẫn để học cách nhận thức về đặc điểm cấu tạo của chúng thông qua sự quan sát chứ không hề mong mỏi vươn lên đến nguồn gốc căn nguyên đầu tiên của chúng. Cho nên, câu hỏi chỉ có thể là: phải chăng mệnh đề cơ bản này chỉ đơn thuần có giá trị một cách chủ quan, nghĩa là, chỉ là một châm ngôn đơn thuần của năng lực phán đoán của ta; hoặc: phải chăng đó là một nguyên tắc khách quan của Tự nhiên, theo đó, ngoài cơ chế [máy móc] (dựa theo những định luật đơn thuần của sự vận động), có một loại tính nhân quả hoàn toàn khác gắn liền với Tự nhiên, tức tính nhân quả của những nguyên nhân mục đích, còn những định luật (của các lực vận động) chỉ giữ vai trò như những nguyên nhân trung gian (Mittelursachen) mà thôi. Trước đây, ta đã phải để câu hỏi hay vấn đề đặt ra cho sự tư biện này hoàn toàn không được quyết định và không được giải quyết, vì lẽ nếu ta chịu hài lòng với sự tư biện bên trong các ranh giới của nhận thức tự nhiên đơn thuần, ta có đủ các châm ngôn nói trên để nghiên cứu về Tự nhiên và khám phá những bí mật còn ẩn giấu của nó trong chừng mực các năng lực của con người có thể vươn đến được. Hẳn nhiên, khi làm như thế, ta vẫn có ở đây một dự cảm nào đó của lý tính chúng ta hay một dấu hiệu do Tự nhiên mang lại, cho thấy rằng, dựa vào khái niệm này về những mục đích tự nhiên, ta đi ra bên ngoài Tự nhiên và có thể hợp nhất nó về một điểm tối cao trong chuỗi những nguyên nhân, nếu ta thử từ bỏ hay ít ra, thử tạm gác sự nghiên cứu về Tự nhiên (cho dù ta chưa thực sự có bước tiến khá xa trong việc này) để, trước đó, thử tìm ra khái niệm về những mục đích tự nhiên, tức, để thử xem yếu tố xa lạ này sẽ dẫn ta đi xa đến đâu ở trong khoa học tự nhiên. Còn ở đây, các châm ngôn không có gì đáng tranh cãi ấy lại chuyển thành những vấn đề, mở ra một lĩnh vực rất rộng cho các cuộc tranh cãi rất nan giải. | Đó là: phải chăng sự nối kết về mục đích ở trong Tự nhiên chứng minh sự tồn tại của một loại nhân quả đặc thù? Hoặc phải chăng tính nhân quả ấy, xét trong chính nó và tương ứng với các nguyên tắc về mục đích, cũng tương tự như cơ chế máy móc của Tự nhiên hay dựa trên một và cùng một cơ sở giống nhau? | Và chỉ vì, trong nhiều sản phẩm tự nhiên, cơ sở này thường ẩn mình quá sâu đối với sự tìm tòi của ta, nên ta thử cố gắng đề ra một nguyên tắc chủ quan, tức nguyên tắc về “nghệ thuật” (Kunst), nghĩa là về tính nhân quả dựa theo các Ý niệm và ta gán nguyên tắc này vào cho giới Tự nhiên bằng phép tương tự (Analogie) [loại suy]. | Cách làm bất đắc dĩ này nhiều khi giúp ta thành công và có khi khiến ta thất bại, nhưng, trong mọi trường hợp, đều không cho phép ta du nhập một cách chính đáng vào trong khoa học tự nhiên một loại tác động hoàn toàn khác với tính nhân quả dựa theo những định luật đơn thuần cơ giới của Tự nhiên. Ta thử dùng tên gọi: “kỹ thuật” (Technik) để chỉ phương thức (tính nhân quả) của Tự nhiên dựa trên vẻ tương tự với “mục đích” mà ta tìm thấy trong những sản phẩm của nó; và ta chia “kỹ thuật” này ra làm hai loại: “kỹ thuật hữu ý” (technica intentionalis) và “kỹ thuật vô ý” (technica naturalis). Cái trước có nghĩa là: năng lực tác tạo của Tự nhiên dựa theo các nguyên nhân mục đích phải được xem như là một loại đặc thù của tính nhân quả; còn cái sau có nghĩa là: về căn bản, nó giống hệt [hay chính là một] với cơ chế [máy móc] của Tự nhiên và sự trùng hợp ngẫu nhiên của nó với các khái niệm “nghệ thuật” [nhân tạo] của ta cùng với những quy tắc của chúng phải được lý giải như là điều kiện đơn thuần chủ quan trong việc phán đoán về nó và đã xem nó một cách sai lầm như là một loại đặc thù của việc tác tạo tự nhiên. Vậy, bây giờ nếu ta bàn về các hệ thống [triết học] nhằm giải thích Tự nhiên dựa theo những nguyên nhân mục đích của nó, ta cần lưu ý rằng chúng đối nghịch nhau nhưng đều theo kiểu “giáo điều” cả, nghĩa là tranh cãi nhau về các nguyên tắc khách quan đối với khả thể của những sự vật, tức cãi nhau xem chúng là hữu ý hay vô ý, chứ không tranh cãi nhau về châm ngôn chủ quan được ta dùng để đơn thuần phán đoán [phản tư] về các nguyên nhân của những sản phẩm hợp mục đích ấy. | Ta biết rằng, trong trường hợp sau, các nguyên tắc [châm ngôn] khác biệt nhau (disparat) hoàn toàn có thể hợp nhất lại với nhau, còn trong trường hợp trước, các nguyên tắc đối lập-mâu thuẫn (kontradiktorisch-entgegengesetzt) nhất định phải thủ tiêu nhau và không thể cùng tồn tại bên nhau được. Các hệ thống bàn về “kỹ thuật” của Tự nhiên, tức về năng lực tác tạo của nó dựa theo quy tắc của các mục đích, có hai loại: thuyết duy tâm và thuyết duy thực về những mục đích tự nhiên. Thuyết duy tâm là sự khẳng định rằng mọi tính hợp mục đích của Tự nhiên đều là vô-ý (unabsichtlich); còn thuyết duy thực cho rằng một số (trong những thực thể có tổ chức) là hữu ý (absichtlich). | Từ thuyết duy thực có thể rút ra hệ luận có tính giả thiết rằng kỹ thuật của Tự nhiên – xét mọi sản phẩm khác của nó trong quan hệ với cái toàn bộ Tự nhiên – là hữu ý, tức, là một mục đích. 1. Thuyết duy tâm về tính hợp mục đích (ở đây, tôi luôn hiểu là tính hợp mục đích khách quan) thì hoặc là thuyết duy tâm về tính ngẫu nhiên (Kasualität) hoặc về tính tiền định (Fatalität) của sự quy định của Tự nhiên trong hình thức hợp mục đích của những sản phẩm của nó. Nguyên tắc trước liên quan đến mối quan hệ của chất liệu với cơ sở vật lý của hình thức của chất liệu, tức các quy luật về sự vận động, còn nguyên tắc sau là quan hệ với cơ sở siêu-vật lý (hyper-physisch) của bản thân nó và của toàn bộ giới Tự nhiên. Hệ thống [duy tâm] về tính ngẫu nhiên được quy cho Epikur* hay Democritus**, nhưng xét theo nghĩa đen của từ này thì việc quy ấy rõ ràng là phi lý nên ta không nên giữ lại. | Ngược lại, hệ thống [duy tâm] về tính tiền định (Spinoza*** được xem là tác giả, mặc dù hình như xưa hơn rất nhiều) viện dẫn đến một cái gì Siêu-cảm tính mà nhận thức của ta không vươn đến nổi nên không dễ bác bỏ; và sở dĩ như thế vì khái niệm của thuyết ấy về Hữu thể nguyên thủy là không thể nào hiểu được. Tuy nhiên, điều rõ ràng là: theo thuyết này, sự nối kết có tính mục đích trong thế giới phải được xem như là vô-ý (vì, dù được suy ra từ một Hữu thể căn nguyên, nhưng không phải từ trí tuệ của Hữu thể này hay từ bất kỳ ý đồ nào về phía Hữu thể ấy mà đúng ra là từ tính tất yếu của bản tính của Hữu thể căn nguyên và của sự nhất thể của thế giới bắt nguồn từ đó). | Cho nên, thuyết tiền định về tính hợp mục đích đồng thời là một thuyết duy tâm.
2. Thuyết duy thực về tính hợp mục đích của Tự nhiên cũng có hai dạng: vật lý hoặc siêu-vật lý. Phái trước – dựa theo sự tương tự (Analogon) của một quan năng hành động theo ý đồ – đặt cơ sở cho những mục đích ở trong Tự nhiên trên sự sống của vật chất (của bản thân vật chất hoặc của sự sống của một nguyên tắc nội tại ở trong vật chất, gọi là một “linh hồn thế giới”/Weltseele), nên có tên là thuyết vật hoạt (Hylo-zoism). Phái sau suy ra những mục đích từ cơ sở uyên nguyên của vũ trụ như từ một Hữu thể có trí tuệ (có sự sống một cách nguyên thủy) đã tạo ra chúng với ý đồ; và đó chính là thuyết [duy] Thần luận (Theismus)(1).
§73 KHÔNG HỆ THỐNG NÀO TRONG SỐ KỂ TRÊN LÀM ĐƯỢC ĐIỀU NÓ HỨA HẸN Tất cả các hệ thống trên đây mong muốn điều gì? Chúng đều muốn giải thích các phán đoán mục đích luận của ta về giới Tự nhiên; và, khi bắt tay vào việc, thì một bên lại phủ nhận chân lý của các phán đoán ấy, nên cho rằng chúng là một thuyết duy tâm về Tự nhiên (tức đã hình dung Tự nhiên như “nghệ thuật” tác tạo); còn bên khác lại thừa nhận các phán đoán ấy là đúng sự thật, và hứa hẹn rằng có thể chứng minh khả thể của một giới Tự nhiên dựa theo ý tưởng về những nguyên nhân mục đích [tức phái duy thực]. 1. Các hệ thống bảo vệ cho thuyết duy tâm về những nguyên nhân mục đích ở trong Tự nhiên một mặt thừa nhận nguyên tắc về một tính nhân quả tương ứng với các định luật của sự vận động (nhờ tính nhân quả ấy, những sự vật tự nhiên mới tồn tại một cách hợp mục đích), nhưng [mặt khác] lại phủ nhận tính ý đồ (Intentionalität) nơi quan hệ nhân quả ấy, nghĩa là, phủ nhận rằng tính nhân quả tự quy định chính mình một cách hữu ý trong việc tác tạo hợp mục đích của nó, hay, nói cách khác, phủ nhận rằng nguyên nhân ở đây là một mục đích. Đó là cách giải thích của Epikur, theo đó, bất kỳ sự phân biệt nào giữa một “kỹ thuật” của Tự nhiên với cơ chế [máy móc] đơn thuần đều hoàn toàn bị phủ nhận. | Sự ngẫu nhiên mù quáng được dùng làm cơ sở giải thích không chỉ cho sự trùng hợp giữa những sản phẩm đã phát triển [của Tự nhiên] với các khái niệm của ta về mục đích, và, do đó, cho “kỹ thuật” [của Tự nhiên], mà còn cho cả sự quy định của những nguyên nhân của sự tác tạo này dựa theo những định luật của sự vận động, và, do đó, cho cơ chế [máy móc] của chúng. | Như thế, không có gì là được giải thích cả, càng không giải thích được ảo tượng trong những phán đoán mục đích luận của ta, và, do đó, thuyết gọi là duy tâm này về năng lực phán đoán không hề được thiết lập. Về phía khác, Spinoza lại muốn xóa bỏ mọi tìm tòi của ta về cơ sở cho khả thể của những mục đích của Tự nhiên và tước đi mọi tính thực tại của ý tưởng này bằng cách không xem Tự nhiên nói chung là những sản phẩm mà là những tùy thể (Akzidenzen) phụ thuộc vào một Hữu thể-nguyên thủy (Urwesen), và gán cho Hữu thể này, – với tư cách là cơ chất của những sự vật tự nhiên nói trên – không phải tính nhân quả đối với chúng mà chỉ đơn thuần như là Bản thể (Subsistenz) mà thôi. | Nhờ việc nhấn mạnh đến tính tất yếu-vô điều kiện của Bản thể [làm cơ chất] này, và, do đó, đến tính tất yếu của mọi sự vật tự nhiên như là những tùy thể phụ thuộc vào Bản thể ấy, quả Spinoza đã đảm bảo cho những hình thức của Tự nhiên sự thống nhất về cơ sở vốn là điều cần có cho mọi tính hợp mục đích, nhưng, đồng thời, ông tước bỏ tính bất tất [nghĩa là: tính có thể không tồn tại] của những sự vật tự nhiên, mà không có điều này thì sự thống nhất về mục đích không thể suy tưởng được, và, cùng với nó, tước bỏ luôn mọi ý đồ cũng như mọi trí tuệ ra khỏi cơ sở nguyên thủy của những sự vật tự nhiên. Nhưng, như thế, thuyết Spinoza không làm được điều nó muốn. Thuyết ấy muốn mang lại một cơ sở giải thích cho việc nối kết về mục đích (mà nó không phủ nhận) giữa những sự vật trong Tự nhiên, song chỉ đơn thuần nêu được sự thống nhất của Chủ thể mà mọi sự vật đều lệ thuộc vào như những tùy thể. Tuy nhiên, cho dù ta tán thành với thuyết ấy về phương thức tồn tại như thế của những hữu thể của thế giới, thì sự thống nhất bản thể học ấy cũng không lập tức trở thành sự thống nhất về mục đích và tuyệt nhiên không làm cho ta hiểu được chút nào về sự thống nhất này. Bởi, sự thống nhất về mục đích là một loại hoàn toàn đặc thù, không thể được suy ra từ sự nối kết giữa những hữu thể trong thế giới (Weltwesen) ở trong một Chủ thể (Bản thể nguyên thủy/Urwesen), mà phải là mối quan hệ với một nguyên nhân (Ursache) có trí tuệ; và cho dù ta hợp nhất mọi sự vật này vào trong một Chủ thể đơn giản, điều này vẫn không bao giờ cho thấy được một mối quan hệ về mục đích. | Bởi lẽ, thứ nhất, ta không suy tưởng về chúng như là những kết quả nội tại của Bản thể như thể Bản thể này là một nguyên nhân; và, thứ hai, không suy tưởng về nguyên nhân này như là một nguyên nhân sản sinh ra những kết quả nhờ vào trí tuệ của mình. Không có các điều kiện hình thức này, mọi sự thống nhất chỉ là sự tất yếu tự nhiên đơn thuần, và, như là sự tất yếu mù quáng nếu nó được gán cho những sự vật được ta hình dung như là ở bên ngoài nhau. Còn nếu ta muốn ban danh hiệu “tính hợp mục đích của Tự nhiên” cho cái được trường phái này gọi là “sự hoàn hảo cơ bản”* của những sự vật (xét theo sự hiện hữu riêng của chúng), theo đó bất kỳ sự vật nào cũng có trong bản thân nó điều cần thiết để làm cho nó trở thành sự vật này chứ không phải sự vật khác, thì chỉ là một trò chơi chữ ấu trĩ thay vì làm việc với những khái niệm. Bởi vì, nếu giả sử mọi sự vật đều phải được suy tưởng như là những mục đích, thì tồn tại như là một sự vật cũng có nghĩa là tồn tại như một mục đích; điều này, xét đến cùng, chẳng có điểm gì riêng để đáng được hình dung như là một mục đích cả. Từ đó, ta thấy ngay rằng, khi quy giảm các khái niệm của ta về cái hợp mục đích ở trong Tự nhiên vào ý thức của bản thân ta về một Hữu thể (đơn giản) bao trùm tất cả và khi đi tìm hình thức này đơn thuần ở trong sự thống nhất hay nhất thể của Hữu thể ấy, Spinoza không có ý bảo vệ thuyết duy thực mà bảo vệ thuyết duy tâm về tính hợp mục đích của Hữu thể nguyên thủy. Nhưng, ngay điều này, Spinoza cũng đã không thể thực hiện được, vì lẽ sự hình dung đơn thuần về sự thống nhất hay nhất thể của cái cơ chất không thể mang lại ý tưởng về một tính hợp mục đích, kể cả về một tính hợp mục đích nhưng không có ý đồ. 2. Đối với những người không chỉ chủ trương thuyết duy thực về những mục đích tự nhiên mà còn có tham vọng giải thích nó, họ tin rằng mình có thể thấu hiểu được, chí ít là về khả thể, một loại tính nhân quả đặc thù, tức, tính nhân quả hành động một cách hữu ý, bởi nếu không tin như thế, họ đã không thể ra sức mang lại sự giải thích này. Lý do thật dễ hiểu: để cho phép có được một giả thuyết liều lĩnh nhất thì chí ít cũng phải xác tín về khả thể của điều được lấy làm nền tảng cho giả thuyết và ta phải có khả năng đảm bảo tính thực tại khách quan cho khái niệm về nó. Thế nhưng, ta tuyệt nhiên không thể nào suy tưởng được về khả thể của vật chất có sự sống: khái niệm này vấp phải một sự mâu thuẫn, bởi tính không có sự sống, hay “inertia” (nọa tính hay quán tính) tạo nên đặc tính cơ bản của vật chất. Khả thể của vật chất được phú cho sự sống và khả thể của Toàn bộ giới Tự nhiên được xem như một sinh vật chỉ có thể được sử dụng một cách hạn hẹp (nhằm đề ra giả thuyết về tính hợp mục đích trong toàn bộ giới Tự nhiên), trong chừng mực khả thể ấy thể hiện ra ở trong kinh nghiệm về sự tổ chức của Tự nhiên trong phạm vi nhỏ bé, chứ ta không thể nào thấu hiểu khả thể ấy một cách tiên nghiệm (a priori) được. Ta nhất định rơi vào vòng lẩn quẩn trong việc giải thích, nếu ta muốn rút ra tính hợp mục đích của Tự nhiên trong những vật thể có tổ chức từ sự sống của vật chất, trong khi ta chỉ biết về sự sống này ở trong những sinh vật hữu cơ mà thôi, và, không thể hình thành khái niệm nào về khả thể của nó mà không có kinh nghiệm về loại này. Do đó, thuyết vật hoạt không mang lại được điều nó hứa hẹn. Sau cùng, thuyết Thần luận cũng không thể thiết lập được khả thể của những mục đích tự nhiên như là chìa khóa cho môn Mục đích luận một cách giáo điều, mặc dù so với tất cả các cơ sở giải thích khác, nó có ưu thế là tìm ra cách tốt nhất để cứu vãn tính hợp mục đích của Tự nhiên ra khỏi thuyết duy tâm và du nhập một tính nhân quả hành động hữu ý trong việc tác tạo nhờ vào “trí tuệ” được nó gán cho Hữu thể căn nguyên. Thế nhưng, trước tiên ta phải chứng minh một cách thỏa đáng trước năng lực phán đoán xác định về sự bất khả của sự thống nhất về mục đích ở trong vật chất nếu chỉ suy ra từ cơ chế đơn thuần máy móc của nó, trước khi ta được phép chính đáng là đặt cơ sở của nó ở phía bên kia Tự nhiên cũng bằng một cách xác định. Song, ta không thể nào đi xa được đến mức ấy. | Tương ứng với đặc tính cấu tạo và các giới hạn của các quan năng nhận thức của ta (ngay cả cơ sở nội tại sơ thủy của cơ chế máy móc, ta cũng không thấu hiểu nổi), ta tuyệt nhiên không có cách nào đi tìm được trong vật chất một nguyên tắc về các mối quan hệ mục đích có tính xác định, ngoài cách phán đoán về việc sản sinh ra những sản phẩm của nó như là những mục đích tự nhiên nhờ vào một “Trí tuệ tối cao” như là nguyên nhân của thế giới. Nhưng, đó chỉ là một cơ sở cho năng lực phán đoán phản tư chứ không phải cho năng lực phán đoán xác định và tuyệt nhiên không thể biện minh cho bất kỳ một khẳng quyết khách quan nào cả.
§74 LÝ DO KHIẾN TA KHÔNG THỂ XỬ LÝ MỘT CÁCH GIÁO ĐIỀU ĐỐI VỚI KHÁI NIỆM VỀ “MỘT KỸ THUẬT CỦA TỰ NHIÊN” LÀ VÌ: MỘT MỤC ĐÍCH TỰ NHIÊN LÀ KHÔNG THỂ GIẢI THÍCH ĐƯỢC Ta xử lý một khái niệm (ngay cả khi khái niệm ấy là có-điều kiện thường nghiệm) một cách giáo điều, khi ta xem nó như là được chứa đựng bên dưới một khái niệm khác về đối tượng và khái niệm ấy tạo nên một nguyên tắc của lý tính* và xác định nó tương ứng với nguyên tắc này. Còn ta làm việc với nó đơn thuần một cách phê phán, khi ta chỉ xem xét nó trong quan hệ quy chiếu với các quan năng nhận thức của ta và, do đó, với các điều kiện chủ quan để suy tưởng về nó mà không tìm cách quyết định điều gì cả về đối tượng của khái niệm. Như thế, phương pháp xử lý giáo điều với một khái niệm là phương pháp hợp quy luật dành cho năng lực phán đoán xác định, còn phương pháp phê phán là hợp quy luật dành cho năng lực phán đoán phản tư. Bây giờ, [ta thấy] khái niệm về một sự vật như là mục đích tự nhiên là một khái niệm thâu gồm (subsummiert) Tự nhiên vào dưới một tính nhân quả chỉ có thể suy tưởng được bằng lý tính mà thôi, để, dựa theo nguyên tắc ấy, phán đoán về một đối tượng được mang lại ở trong kinh nghiệm. Nhưng, để sử dụng nó một cách giáo điều cho năng lực phán đoán xác định, trước tiên, ta phải được đảm bảo về tính thực tại khách quan của khái niệm này đã, bởi nếu không, ta không thể thâu gồm bất kỳ sự vật tự nhiên nào vào dưới nó được cả. Lại nữa, khái niệm về một sự vật như là về một mục đích tự nhiên tuy là có-điều kiện một cách thường nghiệm, nghĩa là, chỉ có thể có được dưới một số điều kiện nhất định nào đó được mang lại ở trong kinh nghiệm, mặc dù khái niệm ấy không hề được rút ra từ kinh nghiệm mà là một khái niệm chỉ có thể có được là nhờ tương ứng với một nguyên tắc lý tính trong việc phán đoán về đối tượng. Cho nên, tính thực tại khách quan của nó (tức cho rằng một đối tượng phù hợp với nguyên tắc ấy là có thể có được) không thể được nhận thức và thiết lập như một nguyên tắc một cách giáo điều; và, ta không biết liệu đây chỉ là một khái niệm ngụy biện và trống rỗng về mặt khách quan (lat: conceptus ratiocinans) hay là một khái niệm lý tính, thiết lập nên nhận thức và được lý tính xác nhận (lat: conceptus ratiocinatus)*. Vì thế, nó không thể được xử lý một cách giáo điều dành cho năng lực phán đoán xác định, nghĩa là: nó không chỉ không thể quyết định phải chăng những sự vật của Tự nhiên – được xét như những mục đích tự nhiên – có cần một tính nhân quả thuộc loại đặc biệt (tức hành động hữu ý) để chúng được tạo ra hay không, mà thậm chí không thể đặt ra câu hỏi ấy được, vì lẽ khái niệm về một mục đích tự nhiên tuyệt nhiên không thể được chứng minh về tính thực tại khách quan bằng lý tính (nói khác đi, nó không có tính cấu tạo cho năng lực phán đoán xác định mà chỉ có tính điều hành cho năng lực phán đoán phản tư mà thôi). Điều này rõ ràng là không thể chứng minh được, bởi vì (với tư cách là khái niệm về một sản phẩm tự nhiên), nó vừa bao hàm trong chính nó tính tất yếu tự nhiên và, đồng thời, (với tư cách là mục đích) một tính bất tất về hình thức của đối tượng (trong quan hệ với những định luật đơn thuần của Tự nhiên) ngay trong cùng một sự vật. | Do đó, để không gặp mâu thuẫn ở đây, nó vừa phải chứa đựng cơ sở cho khả thể của sự vật trong Tự nhiên, vừa chứa đựng cơ sở cho khả thể của bản thân giới Tự nhiên này và cho mối quan hệ của Tự nhiên với một giới Tự nhiên (Siêu-cảm tính) không thể nhận thức được một cách thường nghiệm, và điều ấy là tuyệt nhiên không thể nhận thức được đối với ta. | [Nhưng, cả hai cơ sở khả thể] là cần phải có nếu nó được phán đoán dựa theo một kiểu tính nhân quả khác hẳn với tính nhân quả của cơ chế tự nhiên, khi ta muốn xác lập khả thể của nó. Vậy, khái niệm về một sự vật – xét như một mục đích tự nhiên – là siêu việt (transzendent) đối với năng lực phán đoán xác định, nếu ta xem xét đối tượng bằng lý tính (mặc dù đối với năng lực phán đoán phản tư, nó hoàn toàn có thể là nội tại (immanent) trong quan hệ với những đối tượng của kinh nghiệm). | Đối với những phán đoán xác định, ta không thể nào mang lại tính thực tại khách quan cho khái niệm ấy được, vì thế dễ hiểu tại sao mọi hệ thống [triết học] – nhằm xử lý một cách giáo điều đối với khái niệm về những mục đích tự nhiên và về bản thân giới Tự nhiên xét như một toàn bộ được nối kết lại với nhau nhờ vào những nguyên nhân mục đích – đều không thể quyết định điều gì được cả, dù bằng sự khẳng định khách quan hay bằng sự phủ nhận khách quan. | Bởi vì, nếu những sự vật được thâu gồm vào dưới một khái niệm chỉ đơn thuần có tính nghi vấn, thì những thuộc từ tổng hợp của nó (chẳng hạn ở đây là: phải chăng mục đích của Tự nhiên được ta suy tưởng cho sự sản sinh ra sự vật là hữu ý hay vô ý) cũng chỉ có thể mang lại những phán đoán (nghi vấn) về đối tượng, tức không biết phải khẳng định hay phủ nhận chúng; và ta không hề biết ta đang phán đoán về một điều gì hay chẳng về một điều gì cả. Khái niệm về một tính nhân quả thông qua các mục đích (của “nghệ thuật”) tất nhiên có tính thực tại khách quan cũng giống như khái niệm về một tính nhân quả dựa theo cơ chế [máy móc] của Tự nhiên. Thế nhưng, khái niệm về một tính nhân quả của Tự nhiên dựa theo quy tắc của những mục đích, – huống hồ khái niệm về một Hữu thể vốn không thể được mang lại cho ta ở trong kinh nghiệm mà lại là nguyên nhân nguyên thủy của giới Tự nhiên – thì tuy có thể được suy tưởng mà không có sự mâu thuẫn gì, nhưng không thể thích dụng cho các quy định có tính giáo điều. | Vì lẽ khái niệm ấy không thể được rút ra từ kinh nghiệm, và, do đó, không cần thiết đối với khả thể của kinh nghiệm, nên tính thực tại khách quan của nó tuyệt nhiên không hề được đảm bảo. Nhưng cho dù điều này có thể làm được đi nữa thì thử hỏi làm sao tôi có thể kể những sự vật được xem là sản phẩm của “nghệ thuật thần linh” ấy vào hàng ngũ những sự vật tự nhiên được, một khi chính sự bất lực của Tự nhiên để tạo ra những sự vật này dựa theo những định luật của riêng nó đã buộc nó phải cầu viện tới một nguyên nhân khác hẳn với nó?
§75 KHÁI NIỆM VỀ MỘT TÍNH HỢP MỤC ĐÍCH KHÁCH QUAN CỦA TỰ NHIÊN LÀ MỘT NGUYÊN TẮC PHÊ PHÁN CỦA LÝ TÍNH DÀNH CHO NĂNG LỰC PHÁN ĐOÁN PHẢN TƯ Hai câu nói sau đây là hoàn toàn khác nhau: một đằng, nói rằng: “việc tạo ra một số sự vật ở trong Tự nhiên hoặc việc tạo ra toàn bộ giới Tự nhiên chỉ có thể có được bằng một nguyên nhân tự khiến mình hành động dựa theo các ý đồ”; và đằng khác, nói rằng: “Dựa theo đặc tính cấu tạo đặc thù của các quan năng nhận thức của tôi, tôi không thể phán đoán về khả thể của những sự vật này và về việc tạo ra chúng bằng cách nào khác hơn là suy tưởng [hay quan niệm] về một nguyên nhân hành động dựa theo ý đồ, tức là, về một Hữu thể có năng lực tác tạo tương tự với tính nhân quả của một trí tuệ”. Trong trường hợp trước, tôi muốn thiết lập một điều gì đó về đối tượng và có trách nhiệm phải chứng minh tính thực tại khách quan của một khái niệm được giả định như thế; còn trong trường hợp sau, lý tính chỉ xác định việc sử dụng các quan năng nhận thức của tôi, phù hợp với đặc điểm riêng có của chúng và với các điều kiện bản chất của phạm vi lẫn của các giới hạn của chúng mà thôi. Cho nên, nguyên tắc trước là một mệnh đề khách quan dành cho năng lực phán đoán xác định, còn nguyên tắc sau chỉ là một mệnh đề chủ quan dành cho năng lực phán đoán phản tư, tức là, một châm ngôn được lý tính đề ra cho nó [cho năng lực phán đoán phản tư]. Quả thật, ta buộc phải đề ra khái niệm về một ý đồ làm nền móng cho Tự nhiên nếu ta muốn nghiên cứu về Tự nhiên, dù chỉ trong những sản phẩm có tổ chức của nó, bằng cách liên tục quan sát, và vì thế, khái niệm này là một châm ngôn tuyệt đối cần thiết cho việc sử dụng thường nghiệm đối với lý tính của ta. Rõ ràng là, một khi manh mối hướng dẫn như thế cho việc nghiên cứu về Tự nhiên được chấp nhận và được thử thách, thì ít ra ta cũng phải thử áp dụng châm ngôn nói trên của năng lực phán đoán vào cho giới Tự nhiên xét như một toàn bộ, bởi nhờ đó biết đâu nhiều định luật của Tự nhiên có thể tự bộc lộ vì chúng sẽ giấu mình nếu ta tiến hành cách khác do sự hạn chế của khả năng thâm nhập của ta vào trong cơ chế bên trong của Tự nhiên. Nhưng, đối với việc sử dụng này, tuy châm ngôn của năng lực phán đoán rõ ràng là hữu ích, nó lại không tuyệt đối cần thiết, vì lẽ giới Tự nhiên – xét như một toàn bộ có tổ chức – (trong nghĩa hẹp của từ này) không hề được mang lại [trong kinh nghiệm]. Ngược lại, đối với những sản phẩm tự nhiên nhất thiết phải được phán đoán như là hữu ý và không thể có cách hình thành nào khác (nếu ta có đủ tri thức thường nghiệm về đặc tính cấu tạo bên trong của chúng), thì châm ngôn này của năng lực phán đoán phản tư lại tuyệt đối cần thiết, vì lẽ chính bản thân ý tưởng về chúng như là những sự vật có tổ chức là không thể có được nếu không kết hợp với ý tưởng về việc sản sinh ra chúng một cách hữu ý. Bây giờ, khái niệm về một sự vật mà sự hiện hữu hay hình thức của nó được ta hình dung như là có thể có được với điều kiện phải có một mục đích lại gắn liền với khái niệm về tính bất tất của nó (nếu xét theo những định luật tự nhiên). Do đó, những sự vật tự nhiên được ta xem là chỉ có thể có được với tư cách là những mục đích mang lại bằng chứng tốt nhất cho tính bất tất của toàn bộ thế giới đối với lý trí thông thường cũng như cho cả những triết gia vì chúng là cơ sở chứng minh duy nhất có giá trị về sự phụ thuộc và bắt nguồn của thế giới đối với một Hữu thể hiện hữu ở bên ngoài thế giới, – một Hữu thể cũng phải có trí tuệ mới có được hình thức hợp mục đích ấy. | Như thế, Mục đích luận không tìm thấy sự kết thúc việc nghiên cứu của nó ở đâu khác hơn là trong một môn Thần học. Vậy, rốt cục, môn Mục đích luận hoàn chỉnh nhất chứng minh điều gì? Phải chăng nó chứng minh rằng có sự hiện hữu của một Hữu thể có trí tuệ? Không! Nó chỉ chứng minh rằng, dựa theo đặc tính cấu tạo của các quan năng nhận thức của ta và trong việc nối kết chặt chẽ của kinh nghiệm với các nguyên tắc tối cao của lý tính, ta tuyệt đối không thể hình thành một khái niệm nào về khả thể của một thế giới như thế ngoài việc suy tưởng về một nguyên nhân tối cao của thế giới hành động một cách hữu ý. Vì thế, một cách khách quan, ta không thể chứng minh cho mệnh đề rằng có một Hữu thể nguyên thủy có trí tuệ, mà chỉ một cách chủ quan cho việc sử dụng năng lực phán đoán của ta trong sự phản tư của nó về những mục đích ở trong Tự nhiên, vốn không thể được suy tưởng dựa theo nguyên tắc nào khác hơn là nguyên tắc về một tính nhân quả hữu ý của một nguyên nhân tối cao. Còn nếu giả sử ta muốn chứng minh mệnh đề trên đây một cách giáo điều trên những cơ sở mục đích luận, ắt ta sẽ phải vướng vào những khó khăn không thể gỡ ra nổi. Bởi, trong trường hợp ấy, mệnh đề ấy kỳ cùng phải được quy về với kết luận rằng những thực thể có tổ chức ở trong thế giới không thể có được bằng cách nào khác hơn là do một nguyên nhân hành động hữu ý. Và ta sẽ không tránh được việc khẳng quyết điều ấy, vì ta theo dõi những sự vật này trong sự nối kết nhân quả của chúng chỉ dựa vào Ý tưởng về các mục đích và chỉ nhận thức được chúng dựa theo tính hợp quy luật của chúng, nên ta có quyền giả định điều này như là một điều kiện tất yếu cho bất kỳ một thực thể được suy tưởng và được nhận thức nào, tức một điều kiện thuộc về đối tượng chứ không chỉ còn thuộc về chủ thể của ta nữa. Nhưng, ta không thể nào giữ vững khẳng quyết ấy được! Vì lẽ, nói thẳng ra, ta không quan sát được những mục đích ở trong Tự nhiên như là hữu ý mà chỉ suy tưởng về khái niệm này ở trong sự phản tư của ta về những sản phẩm của nó như là manh mối hướng dẫn cho năng lực phán đoán của ta: những mục đích không hề được mang lại cho ta thông qua đối tượng! Thậm chí, một cách tiên nghiệm (a priori), ta không thể nào biện minh được, dù là giả định, về tính thực tại khách quan của một khái niệm như thế. Cho nên, nó mãi mãi là một mệnh đề tuyệt đối chỉ dựa trên những điều kiện chủ quan mà thôi, nghĩa là, của năng lực phán đoán làm công việc phản tư tương ứng với các quan năng nhận thức của ta. | Nếu ta diễn đạt mệnh đề này một cách giáo điều như thể nó có giá trị khách quan, ắt nó sẽ là mệnh đề: “Có sự hiện hữu của một vị Thượng đế”. | Nhưng, với con người chúng ta, ta chỉ có thể được phép đưa ra một công thức hữu hạn: “ta không thể suy tưởng cách nào khác và không thể hiểu được tính hợp mục đích – vốn phải làm cơ sở cho nhận thức của ta về khả thể bên trong của nhiều sự vật tự nhiên – bằng cách nào khác hơn là phải hình dung nó và thế giới nói chung như là một sản phẩm của một nguyên nhân có trí tuệ (tức của một vị Thượng đế)*. Bây giờ, nếu mệnh đề dựa trên một châm ngôn tuyệt đối cần thiết của năng lực phán đoán của ta như thế là đáp ứng hoàn toàn đầy đủ mọi sự sử dụng tư biện lẫn thực hành của lý tính chúng ta trong bất kỳ ý đồ nào của con người, thì tôi muốn biết ta sẽ bị tổn hại gì khi ta không đủ khả năng để chứng minh mệnh đề ấy là cũng có giá trị cho những thực thể cao cấp hơn [những vật hữu cơ có tổ chức] từ các cơ sở khách quan (tiếc rằng những cơ sở này đều vượt khỏi các quan năng nhận thức của ta). Thật thế, điều hoàn toàn chắc chắn là ta không thể nhận thức hoàn chỉnh chứ đừng nói đến giải thích được những thực thể có tổ chức và khả thể nội tại của chúng đơn thuần dựa theo các nguyên tắc cơ giới của Tự nhiên; và cũng chắc chắn để dám mạnh dạn nói rằng thật là phi lý cho con người chúng ta khi ta ra sức hay hy vọng sẽ có một Newton khác xuất hiện trong tương lai có thể làm cho ta hiểu rõ về sự sản sinh dù chỉ là của một cọng cỏ dựa theo các định luật tự nhiên mà không do một ý đồ nào đã sắp đặt cả; trái lại, ta buộc phải dứt khoát phủ nhận năng lực thấu hiểu này nơi con người. Bởi, giả sử ta có thể thâm nhập vào nguyên tắc, nhờ đó Tự nhiên dị biệt hóa những định luật phổ biến như ta được biết và không một cơ sở đầy đủ nào cho khả thể của những thực thể có tổ chức là có thể ẩn giấu được cả (ở trong cơ chế đơn thuần cơ giới của Tự nhiên) và không cần giả định bất kỳ ý đồ nào trong việc sản sinh ra chúng, thì ta vẫn đánh giá nhận định ấy là vượt quá sức con người, bởi vì: làm sao ta biết được như thế? Ở đây, những việc phỏng chừng là không có giá trị khi ta [thực chất] đang làm việc với những phán đoán [tư biện, vượt khỏi khả năng nhận thức] của lý tính thuần túy. – Cho nên, ta không thể phán đoán một cách khách quan, dù là khẳng định hay phủ định, đối với mệnh đề: “liệu có một Hữu thể hành động dựa theo chủ ý làm nền tảng cho những gì được ta gọi một cách đúng đắn là những mục đích tự nhiên như là nguyên nhân của thế giới (và, do đó, như là tác giả [đấng Tạo hóa] của thế giới)? | Chỉ có điều duy nhất chắc chắn là, nếu ta buộc phải phán đoán dựa theo những gì cho phép ta nhận thức nhờ vào bản tính tự nhiên của chính ta (theo những điều kiện và những giới hạn của lý tính của ta), ta không thể làm điều gì khác hơn là đặt một Hữu thể có trí tuệ làm nền tảng cho khả thể của những mục đích tự nhiên ấy. | Chỉ duy điều này là phù hợp với châm ngôn của năng lực phán đoán phản tư của ta, và, vì thế, phù hợp với một cơ sở tuy mang tính chủ quan nhưng lại thiết yếu gắn liền với chủng loài người.
§76 NHẬN XÉT Sự xem xét sau đây rất đáng được triển khai chi tiết hơn trong môn Triết học siêu nghiệm, nhưng ở đây chỉ được đề cập sơ qua nhằm giúp làm sáng tỏ (chứ không phải là một sự chứng minh cho những gì đã trình bày). Lý tính là một quan năng của những nguyên tắc và tiến lên tới đòi hỏi cực độ là cái vô-điều kiện, trong khi giác tính giữ vai trò phục vụ cho lý tính và bao giờ cũng ở trong một điều kiện nhất định phải được mang lại. Thế nhưng, nếu không có các khái niệm của giác tính với tính thực tại khách quan được mang lại cho chúng thì lý tính không thể hình thành bất kỳ phán đoán (tổng hợp) khách quan nào cả, và, với tư cách là lý tính lý thuyết, tự mình tuyệt nhiên không có được những nguyên tắc cấu tạo mà chỉ có được những nguyên tắc điều hành. Ta sớm nhận ra rằng nơi nào giác tính không thể đi theo cùng, lý tính ắt trở thành siêu việt và tự thể hiện trong những Ý niệm được thiết lập (như những nguyên tắc điều hành) chứ không phải trong những khái niệm có giá trị khách quan. | Trong khi đó, giác tính, tuy không thể theo kịp lý tính, nhưng lại rất cần có cho tính giá trị hiệu lực của những đối tượng, giới hạn giá trị hiệu lực của những Ý niệm này [của lý tính] trong phạm vi chủ thể mà thôi, mặc dù [mở rộng nó] nói chung cho mọi chủ thể thuộc giống loài này. | Có nghĩa là, giác tính giới hạn tính giá trị hiệu lực của những Ý niệm vào điều kiện là: dựa theo bản tính tự nhiên của các quan năng nhận thức của (con người) chúng ta, hay, nói khái quát hơn, dựa theo khái niệm mà bản thân ta có thể tạo ra được từ quan năng của một hữu thể có lý tính nhưng hữu hạn, ta không thể và không buộc phải suy tưởng bằng cách nào khác hơn được cả, mặc dù điều này không hề khẳng định rằng cơ sở của một phán đoán như thế là nằm ở trong đối tượng. Sau đây, ta muốn nêu vài ví dụ tuy rất quan trọng và cũng rất khó buộc người đọc phải xem ngay là các mệnh đề đã được chứng minh, nhưng sẽ cung cấp chất liệu để bạn đọc suy nghĩ và có thể góp phần làm sáng tỏ điều chính yếu mà chúng ta muốn bàn ở đây. Điều tất yếu cần thiết đối với giác tính con người là phải phân biệt giữa khả thể và hiện thực của những sự vật. Lý do của điều này là ở trong chủ thể trong bản tính tự nhiên của các quan năng nhận thức của ta. Một sự phân biệt như thế (giữa cái khả hữu và cái hiện thực) ắt sẽ không có nếu việc nhận thức không cần có hai yếu tố hoàn toàn khác nhau về loại, đó là giác tính dành cho những khái niệm và trực quan cảm tính dành cho những đối tượng tương ứng với chúng. Nếu giả sử giác tính của ta là có tính trực quan, ắt nó sẽ không có đối tượng nào khác ngoài những đối tượng hiện thực. Trong trường hợp ấy, những khái niệm (chỉ mở rộng đến khả thể của một đối tượng) lẫn những trực quan cảm tính (mang lại cho ta một điều gì đấy nhưng không cho phép ta nhận thức điều ấy như một đối tượng [vì còn cần phải có khái niệm của giác tính]), ắt đều biến mất hết cả. Trong khi đó, mọi sự phân biệt của ta giữa cái đơn thuần khả hữu với cái hiện thực lại dựa vào chỗ: cái khả hữu chỉ có nghĩa là sự thiết định biểu tượng về một sự vật liên quan đến khái niệm của ta và, nói chung, liên quan đến quan năng suy tưởng, trong khi cái hiện thực là sự thiết định sự vật trong bản thân nó (bên ngoài khái niệm này)*. Vậy, sự phân biệt những sự vật khả hữu với những sự vật hiện thực là một sự phân biệt chỉ đơn thuần có giá trị chủ quan đối với giác tính con người, vì lẽ ta lúc nào cũng có thể có một sự vật nào đó trong các tư tưởng của ta, mặc dù nó không hề tồn tại hiện thực, hoặc ta có thể hình dung một sự vật như là được mang lại mặc dù ta không hề có khái niệm nào về nó. Cho nên, các mệnh đề như là: “những sự vật có thể khả hữu nhưng không tồn tại hiện thực”, và “do đó, từ khả thể đơn thuần không thể suy ra sự tồn tại hiện thực” đều hoàn toàn có giá trị đối với lý tính con người song không hề chứng minh rằng sự phân biệt này là nằm trong bản thân những sự vật**. Bảo rằng ta không được phép suy ra, và do đó, bảo rằng các mệnh đề ấy tuy có giá trị về những đối tượng (trong chừng mực quan năng nhận thức của ta – xét như có-điều kiện một cách cảm tính – đang làm việc với những đối tượng của giác quan) nhưng không có giá trị đối với những sự vật nói chung [những sự vật trong tự thân chúng] là hết sức sáng tỏ nếu ta hiểu được đòi hỏi không thể từ bỏ của lý tính là luôn giả định một cái gì đấy (tức cơ sở nguyên thủy) phải tất yếu tồn tại như là cái vô-điều kiện, trong đó khả thể và hiện thực không còn được phân biệt nữa, và, đối với Ý niệm ấy, giác tính của ta tuyệt nhiên không hề có nổi một khái niệm nào, nghĩa là, giác tính không tìm ra cách nào để hình dung được một sự vật như thế lẫn phương thức hiện hữu của nó. Bởi nếu giác tính suy tưởng về một sự vật [vô-điều kiện] như thế (giác tính có thể tha hồ suy tưởng về bất kỳ điều gì), thì sự vật chỉ đơn thuần được hình dung như là khả hữu mà thôi. Còn nếu giác tính có ý thức về sự vật ấy như là được mang lại ở trong trực quan, thì bấy giờ sự vật ấy hóa ra là hiện thực và không còn có gì để được suy tưởng như là khả hữu. Như thế, khái niệm về một Hữu thể tuyệt đối tất yếu quả là một Ý niệm thiết yếu, không thể thiếu được của lý tính, nhưng vẫn là một khái niệm nghi vấn mà giác tính con người không bao giờ có thể đạt tới được. Ý niệm ấy tuy có giá trị cho việc sử dụng các quan năng nhận thức của ta tương ứng với đặc điểm cấu tạo riêng có của chúng, nhưng không có giá trị về đối tượng. | Và [tất nhiên] nó cũng không có giá trị đối với bất kỳ một loại hữu thể có nhận thức nào, bởi tôi không thể tiền-giả định rằng trong bất kỳ loại hữu thể có khả năng nhận thức nào cũng có sự phân biệt giữa tư duy [suy tưởng] và trực quan như là hai điều kiện khác nhau trong việc sử dụng các quan năng nhận thức, hay nói khác đi, như là hai điều kiện khác nhau giữa khả năng và hiện thực của những sự vật. Đối với [loại] giác tính nào đó vốn không có sự phân biệt này, nó có thể bảo rằng: mọi đối tượng được tôi biết thì đều tồn tại, nghĩa là, đều hiện hữu hiện thực (existieren) cả, và, như vậy, khả thể [hay tính có thể có] của sự vật nào không hiện hữu hiện thực (tức tính bất tất hay tính tất yếu trái ngược nhau với những sự vật hiện hữu hiện thực) ắt sẽ tuyệt nhiên không bao giờ có mặt trong sự hình dung của một hữu thể thuộc loại như thế. Nhưng, điều gây khó khăn cho giác tính của ta khi xử lý những khái niệm của mình như cách lý tính đang làm chỉ là ở chỗ: đối với giác tính, như là giác tính của con người, điều được lý tính biến thành nguyên tắc thuộc về đối tượng thì đối với giác tính, đó là cái gì siêu việt (nghĩa là bất khả đối với các điều kiện chủ quan của nhận thức giác tính). – Ở đây, châm ngôn luôn luôn có giá trị là: mọi đối tượng mà sự nhận thức về chúng vượt ra khỏi quan năng của giác tính đều được ta suy tưởng dựa theo các điều kiện chủ quan của việc sử dụng quan năng này, tức các điều kiện thiết yếu gắn liền với bản tính tự nhiên của chúng ta (tức của con người). | Nếu những phán đoán được đưa ra bằng cách này (và không có cách lựa chọn nào khác đối với các khái niệm siêu việt) không thể trở thành những nguyên tắc cấu tạo làm nhiệm vụ xác định đối tượng đúng như bản thân đối tượng, thì chúng vẫn là những nguyên tắc điều hành được chấp nhận từ thế đứng của con người trong việc sử dụng chúng một cách nội tại và vững chắc. Giống như lý tính, trong việc nghiên cứu lý thuyết về giới Tự nhiên, phải giả định Ý niệm về một sự tất yếu vô-điều kiện của cơ sở nguyên thủy của Tự nhiên, thì trong lĩnh vực thực hành, nó cũng tiền-giả định một tính nhân quả vô-điều kiện hay sự tự do của riêng nó (đối với Tự nhiên), bằng cách có ý thức về mệnh lệnh hay điều răn (Gebote) luân lý của chính mình. Ở đây, sự tất yếu khách quan của hành vi, với tư cách là một nghĩa vụ, ắt sẽ đối lập lại với sự tất yếu mà hành vi có thể có với tư cách là một sự kiện, nếu cơ sở của hành vi là ở trong Tự nhiên chứ không phải ở trong Tự do (tức là, ở trong tính nhân quả của lý tính). | Hành vi tuyệt đối-tất yếu về mặt luân lý được xem là hoàn toàn bất tất về mặt “tự nhiên” (physisch), vì những gì tất yếu phải diễn ra [về mặt luân lý] thường không hề diễn ra [về mặt “tự nhiên”]. | Cho nên, rõ ràng là do đặc điểm cấu tạo chủ quan của quan năng luân lý của ta khiến cho những quy luật luân lý phải được hình dung như là những mệnh lệnh, những điều răn, và những hành vi phù hợp với chúng được xem như là những nghĩa vụ và lý tính diễn đạt sự tất yếu này không phải bằng một chữ “Là” (Sein) (diễn ra như một sự kiện) mà bằng chữ “Phải là” (Sein-Sollen). | Điều này ắt không phải như thế nếu giả sử lý tính, trong tính nhân quả của nó, được xem như độc lập với cảm năng (như là điều kiện chủ quan cho việc áp dụng lý tính vào những đối tượng của Tự nhiên), và, với tư cách là nguyên nhân, nếu lý tính là ở trong một thế giới khả niệm [siêu-cảm tính] hoàn toàn nhất trí với quy luật luân lý. | Bởi, trong một thế giới như thế, không hề có sự phân biệt giữa cái “Phải-là” (Sollen) và cái “Đang làm” (Tun), giữa một quy luật thực hành về những gì chỉ có thể có được thông qua bản thân ta với quy luật lý thuyết về những gì trở thành hiện thực thông qua bản thân ta. Do đó, mặc dù một thế giới khả niệm – trong đó mọi việc sở dĩ là hiện thực chỉ vì chúng (như là điều Thiện) là khả hữu cùng với sự Tự do như là điều kiện hình thức của chúng – đối với ta là một khái niệm siêu việt, không thể dùng được như là một nguyên tắc cấu tạo để xác định một đối tượng và tính thực tại khách quan của nó nhưng nó vẫn là một nguyên tắc điều hành phổ biến do đặc điểm cấu tạo của bản tính tự nhiên (có phần cảm tính) và của quan năng của ta trong chừng mực ta có thể hình dung nó tương ứng với đặc điểm cấu tạo của lý tính chúng ta, nghĩa là, của mọi hữu thể có lý tính nhưng lại gắn liền với thế giới cảm tính. Nguyên tắc [điều hành] này không xác định một cách khách quan đặc điểm cấu tạo của sự Tự do xét như hình thức của tính nhân quả, nhưng lại làm cho quy tắc của những hành vi phù hợp với Ý niệm ấy trở thành mệnh lệnh cho bất kỳ ai, với giá trị hiệu lực không kém gì như khi giả sử nó làm nhiệm vụ “xác định”. Điều này cũng đúng như thế đối với trường hợp được ta đang bàn ở đây. | Ta ắt sẽ không tìm thấy sự phân biệt nào giữa cơ chế [máy móc] của Tự nhiên và kỹ thuật của Tự nhiên, tức, của sự nối kết hợp mục đích của nó, nếu giả sử giác tính của ta không thuộc vào loại phải nhất thiết đi từ cái phổ biến đến cái đặc thù. | Đối với cái đặc thù, năng lực phán đoán ắt sẽ không nhận ra được tính hợp mục đích nào, và, do đó, không thể hình thành phán đoán xác định nào cả, nếu không có một quy luật phổ biến để thâu gồm cái đặc thù ấy vào bên dưới nó. Nhưng, cái đặc thù, xét như cái đặc thù, chứa đựng một điều gì đó bất tất trong quan hệ với cái phổ biến, trong khi đó, lý tính lại đòi hỏi sự thống nhất và tính hợp quy luật trong việc nối kết những quy luật đặc thù của Tự nhiên. | Tính hợp quy luật này của cái đặc thù được gọi là tính hợp mục đích; và việc rút ra những quy luật đặc thù từ cái phổ biến, do yếu tố bất tất của chúng, là không thể có được một cách tiên nghiệm (a priori) thông qua một sự xác định đối với khái niệm về đối tượng. | Như thế, khái niệm về tính hợp mục đích của Tự nhiên trong những sản phẩm của nó là tất yếu đối với năng lực phán đoán của con người trong quan hệ với Tự nhiên, nhưng lại không liên quan gì đến sự xác định về đối tượng. | Vì thế, nó là một nguyên tắc chủ quan của lý tính đối với năng lực phán đoán; và, với tư cách là nguyên tắc điều hành (chứ không phải cấu tạo) vẫn có giá trị hiệu lực tất yếu đối với năng lực phán đoán của con người như thể đó là một nguyên tắc khách quan.
§77 VỀ ĐẶC ĐIỂM RIÊNG CÓ CỦA GIÁC TÍNH CON NGƯỜI NHỜ ĐÓ KHÁI NIỆM VỀ MỘT MỤC ĐÍCH TỰ NHIÊN CÓ THỂ CÓ ĐƯỢC CHO TA Trong mục “Nhận xét” [§76] trước đây, ta đã nêu các đặc điểm riêng có của các quan năng nhận thức của ta (kể cả các quan năng cao cấp) đã dễ dàng dẫn dắt ta đi đến chỗ chuyển các đặc điểm ấy thành những thuộc tính khách quan vào bản thân những sự vật. | Nhưng, các đặc điểm ấy chỉ liên quan đến các ý niệm mà không có đối tượng nào trong kinh nghiệm có thể tương ứng được và chúng chỉ có thể phục vụ như là các nguyên tắc điều hành trong việc theo đuổi kinh nghiệm mà thôi. Đó chính là trường hợp của khái niệm về một mục đích tự nhiên liên quan đến nguyên nhân cho khả thể của một thuộc tính như thế và nguyên nhân ấy chỉ có thể nằm ở trong Ý niệm. | Nhưng, kết quả tương ứng với nguyên nhân ấy (tức bản thân sản phẩm) lại được mang lại ở trong Tự nhiên; và khái niệm về một tính nhân quả của Tự nhiên như là của một Hữu thể hành động dựa theo các mục đích lại có vẻ biến Ý niệm về một mục đích tự nhiên thành một nguyên tắc cấu tạo, cho nên, chính ở điểm này, Ý niệm ấy có chỗ dị biệt với mọi Ý niệm khác. Tuy nhiên, chỗ dị biệt này là ở chỗ: Ý niệm đang bàn không phải là một nguyên tắc lý tính dành cho giác tính mà là cho năng lực phán đoán. Vì thế, nó chỉ là việc áp dụng một giác tính nói chung vào cho những đối tượng khả hữu của kinh nghiệm; cụ thể là trong những trường hợp khi năng lực phán đoán chỉ có thể có tính phản tư chứ không có tính xác định, và do đó, khi đối tượng, dù được mang lại ở trong kinh nghiệm, không thể được phán đoán một cách xác định tương ứng với Ý niệm (huống hồ tương ứng một cách hoàn toàn) mà chỉ có thể được phản tư mà thôi. Như vậy, đây là một đặc điểm riêng có của giác tính (con người) của chúng ta liên quan đến năng lực phán đoán trong sự phản tư của nó về những sự vật của Tự nhiên. Nhưng, nếu như thế, thì ở đây phải có ý niệm về một giác tính khả hữu khác hẳn với giác tính con người làm căn bản (cũng giống như trong Phê phán lý tính thuần túy, ta phải có trong tư tưởng về một [loại] trực quan khả hữu nào đó, khác hẳn với trực quan của ta, nếu trực quan của ta phải được xem như là một loại đặc thù, vì đối tượng chỉ có giá trị với nó như là những “hiện tượng”)*. | Và vì thế, ta có thể nói rằng: một số sản phẩm tự nhiên, – do đặc điểm đặc thù của giác tính chúng ta –, phải được chúng ta xem xét về mặt khả thể của chúng như thể là được sản sinh ra một cách hữu ý và như là những mục đích. | Nhưng ta lại không được vì thế mà đòi hỏi rằng ở đây phải thực sự có mặt một nguyên nhân đặc thù có sự hình dung về một mục đích như là cơ sở [có chức năng] xác định; và [đồng thời] ta cũng không được phép phủ nhận rằng một Giác tính nào đó, khác hẳn (nghĩa là: cao hơn) giác tính con người có thể tìm ra được cơ sở cho khả thể của những sản phẩm như thế của Tự nhiên ngay trong cơ chế [máy móc] của Tự nhiên, tức là, trong một sự nối kết nhân quả mà nguyên nhân của nó không loại trừ là một Giác tính [nào đó cao hơn]. Như vậy ở đây vấn đề là nằm ở mối quan hệ giữa giác tính của ta với năng lực phán đoán, nghĩa là, ta đi tìm một sự bất tất nào đó trong đặc điểm cấu tạo của giác tính chúng ta để có thể chỉ ra đặc điểm này như là đặc điểm riêng có phân biệt giác tính của ta với các loại Giác tính khả hữu nào khác. Tính bất tất này có mặt một cách hoàn toàn tự nhiên ở trong cái đặc thù mà năng lực phán đoán có nhiệm vụ đưa nó vào dưới cái phổ biến của các khái niệm của giác tính. | Bởi vì, cái phổ biến của giác tính (con người) chúng ta không xác định cái đặc thù; và trước sự tri giác của ta, bao nhiêu sự vật khác nhau với vô vàn những cách thức lại có thể xuất hiện nhất trí trong một đặc điểm chung là điều hoàn toàn bất tất. Giác tính của ta là một quan năng của những khái niệm, tức là, một giác tính suy lý (diskursiv); và việc cái đặc thù thuộc đủ loại và khác nhau đến bao nhiêu đi nữa đều có thể được mang lại cho giác tính ở trong Tự nhiên và được đưa vào dưới những khái niệm của giác tính rõ ràng phải là có tính bất tất. Nhưng, vì lẽ trực quan cũng thuộc về nhận thức, và một quan năng trực quan có một tính tự khởi hoàn toàn ắt phải là một quan năng nhận thức khác hẳn với cảm năng và hoàn toàn độc lập với cảm năng, hay, nói khác đi, phải là một Giác tính theo nghĩa rộng nhất của từ này [ám chỉ “trực quan trí tuệ” của thần thánh. N.D]. Như thế, ta có thể suy tưởng về một Giác tính [có khả năng] trực quan (intuitiver Verstand) (chỉ theo nghĩa phủ định [nghĩa là không biết nó là gì], chỉ có điều không phải là suy lý [như giác tính con nguời])*, tức một giác tính không đi từ cái phổ biến đến cái đặc thù, rồi từ đó đi đến cái cá biệt (thông qua những khái niệm). | Đối với loại Giác tính ấy, tính bất tất của sự trùng hợp của Tự nhiên trong những sản phẩm của nó dựa theo những quy luật đặc thù với giác tính ắt không diễn ra; và chính sự bất tất này làm cho giác tính của ta gặp bao khó khăn để đưa cái đa tạp của Tự nhiên vào sự thống nhất của nhận thức, một công việc mà giác tính của ta chỉ có thể hoàn thành bằng cách mang những đặc điểm tự nhiên vào một sự tương ứng hết sức bất tất với quan năng của những khái niệm [tức: giác tính] của ta, điều mà loại Giác tính-trực quan ấy không hề cần đến. Như thế, giác tính của ta có đặc điểm riêng trong quan hệ với năng lực phán đoán, đó là: trong nhận thức bằng giác tính, cái đặc thù không được xác định bởi cái phổ biến và vì thế, không thể được rút ra từ cái phổ biến; nhưng, đồng thời, cái đặc thù này ở trong cái đa tạp của Tự nhiên phải trùng hợp với cái phổ biến (nhờ vào những khái niệm và những quy luật), khiến cho nó có thể được thâu gồm vào dưới cái phổ biến. | Sự trùng hợp này – dưới các điều kiện như thế – phải là hết sức bất tất và không có nguyên tắc xác định nào dành cho năng lực phán đoán cả. Bây giờ, để chí ít có thể suy tưởng về khả thể của một sự trùng hợp như thế của những sự vật của Tự nhiên với năng lực phán đoán của ta (sự trùng hợp được ta hình dung như là bất tất, và, do đó, chỉ có thể có được nhờ vào một mục đích hướng về nó), ta đồng thời phải suy tưởng về một Giác tính khác mà trong quan hệ với nó và nhất là với mục đích được gán cho nó, ta có thể hình dung sự trùng hợp giữa những định luật với năng lực phán đoán của ta như là tất yếu, trong khi đối với giác tính của ta, sự trùng hợp ấy chỉ có thể suy tưởng được là nhờ thông qua sự trung gian nối kết của những mục đích. Trong thực tế, giác tính của ta có đặc tính là: trong tiến trình nhận thức, chẳng hạn, nhận thức về nguyên nhân của một sản phẩm, ta phải đi từ cái phổ biến-phân tích (các khái niệm) đến cái đặc thù (tức trực quan thường nghiệm được mang lại). | Như thế, đối với cái đa tạp của cái đặc thù, giác tính không xác định điều gì hết mà phải chờ sự xác định này từ năng lực phán đoán vốn làm công việc thâu gồm trực quan thường nghiệm (nếu đối tượng là một sản phẩm tự nhiên) vào dưới khái niệm. Tuy nhiên, ta vẫn có thể suy tưởng đến một [loại] Giác tính không có tính suy lý như giác tính của ta mà có tính trực quan, ắt Giác tính ấy sẽ đi từ cái phổ biến-tổng hợp (trực quan về một cái toàn bộ xét như cái toàn bộ) đến cái đặc thù, tức là, đi từ cái toàn bộ đến những bộ phận. | Tính bất tất của sự nối kết giữa những bộ phận để cho một hình thức xác định của cái toàn bộ có thể có được, không hề được bao hàm trong một Giác tính như thế và trong sự hình dung của nó về cái toàn bộ. | Giác tính của ta lại cần có điều này bởi nó phải đi từ những bộ phận như là những cơ sở được suy tưởng một cách phổ biến đến những hình thức khác nhau có thể được thâu gồm vào dưới những cơ sở ấy như là những kết quả. Dựa theo đặc điểm cấu tạo của giác tính chúng ta, một cái toàn bộ hiện thực của Tự nhiên chỉ được xem như là kết quả của những lực vận động cạnh tranh nhau của những bộ phận. Vì thế, nếu giả thiết rằng ta không muốn hình dung khả thể của cái toàn bộ như là phụ thuộc vào khả thể của những bộ phận (dựa theo phương cách của giác tính suy lý của ta), mà dựa theo chuẩn mực của Giác tính-trực quan (căn nguyên) để hình dung khả thể của những bộ phận (dựa theo đặc điểm cấu tạo và sự nối kết của chúng) như là phụ thuộc vào khả thể của cái toàn bộ. | [Trong trường hợp ấy], tương ứng với đặc điểm riêng có nói trên của giác tính chúng ta, không thể có việc cái toàn bộ sẽ chứa đựng cơ sở cho khả thể của sự nối kết của những bộ phận (điều này ắt sẽ là một sự mâu thuẫn trong nhận thức suy lý), mà chỉ có việc: sự hình dung về cái toàn bộ có thể chứa đựng cơ sở cho khả thể của hình thức của nó và sự nối kết của những bộ phận thuộc về nó. Trong trường hợp ấy, một cái toàn bộ như thế ắt sẽ là một kết quả (sản phẩm), còn sự hình dung về nó được xem như là nguyên nhân cho khả thể của nó; thế nhưng, sản phẩm của một nguyên nhân mà cơ sở xác định của nó chỉ đơn thuần là sự hình dung về kết quả của nó chính là cái được gọi là một mục đích. | Do đó, nó [cái toàn bộ] chỉ đơn thuần là một kết quả của đặc điểm cấu tạo đặc thù của giác tính chúng ta, vốn hình dung những sản phẩm của Tự nhiên như là khả hữu dựa theo một loại tính nhân quả khác hẳn với tính nhân quả của những định luật tự nhiên của vật chất, tức tính nhân quả của những mục đích và nguyên nhân mục đích. | Và như thế, nguyên tắc này không làm việc với khả thể của bản thân những sự vật như thế (cho dù được xem như là những hiện tượng) dựa theo phương thức sản sinh ra chúng mà chỉ với sự phán đoán về chúng, tức với sự phán đoán là khả hữu đối với giác tính của ta. Ở đây, ta cũng thấy ngay lý do tại sao trong khoa học tự nhiên, ta không còn vừa lòng với một sự giải thích về những sản phẩm của Tự nhiên bằng một tính nhân quả dựa theo những mục đích. | Bởi lẽ ở đó, ta chỉ muốn phán đoán về sự sản sinh của Tự nhiên đơn thuần theo kiểu phù hợp với quan năng phán đoán của ta, tức với năng lực phán đoán phản tư, chứ không liên quan đến bản thân những sự vật nhân danh năng lực phán đoán xác định. Ở đây, tuyệt nhiên không cần phải chứng minh rằng một “intellectus archetypus” [Giác tính hay Trí tuệ căn nguyên] là khả hữu, mà chỉ cần chứng minh rằng ta được dẫn dắt tới Ý niệm về nó – vốn không chứa đựng sự mâu thuẫn nào –, đối lập lại với giác tính suy lý của ta, là thứ giác tính cần đến “những hình ảnh” [những bản sao] (intellectus ectypus), và đối lập lại với tính bất tất của đặc điểm cấu tạo của giác tính này. Nếu ta xem xét một cái toàn bộ mang tính vật chất về mặt hình thức của nó như là một sản phẩm của những bộ phận cùng với những lực và năng lực tự kết hợp với nhau (cũng như với những vật liệu khác), ta hình dung về một phương thức sản sinh có tính cơ giới của cái toàn bộ ấy. Nhưng, bằng cách này, không hình thành nên khái niệm nào về một cái toàn bộ như là mục đích, mà khả thể bên trong của nó luôn tiền-giả định ý niệm về một cái toàn bộ khiến cho đặc tính cấu tạo và phương thức hoạt động của những bộ phận phải phụ thuộc vào, giống như khi ta phải hình dung về một cơ thể có tổ chức. Nhưng, như đã thấy, điều này không dẫn đến kết luận rằng việc sản sinh có tính cơ giới của một cơ thể như thế là không thể có được; bởi bảo thế thì cũng phải bảo rằng đối với bất kỳ loại giác tính nào cũng đều không thể (hay mâu thuẫn) khi hình dung một sự thống nhất như thế ở trong sự nối kết của cái đa tạp mà không có ý niệm về sự thống nhất và đồng thời cũng là nguyên nhân sản sinh ra nó, tức là, không có sự sản sinh hữu ý [có mục đích]. Tất nhiên, ta có thể đi đến kết luận ấy nếu giả sử ta có quyền xem những thực thể vật chất như là những vật-tự thân (Ding an sich selbst). Vì, trong trường hợp ấy, sự thống nhất tạo nên cơ sở cho khả thể của những cấu tạo tự nhiên ắt chỉ đơn giản là sự thống nhất của không gian. | Song, không gian lại không phải là cơ sở hiện thực của những sản phẩm mà chỉ là điều kiện mô thức của chúng*, mặc dù không gian có điểm tương tự với cơ sở hiện thực được ta tìm kiếm ở chỗ trong đó không bộ phận nào có thể được xác định trừ khi ở trong mối quan hệ với cái toàn bộ (do đó, hình dung về cái toàn bộ là cơ sở cho khả thể của những bộ phận). Nhưng, vì chí ít cũng có thể xem xét thế giới vật chất như là hiện tượng đơn thuần và cũng có thể suy tưởng về cơ chất của thế giới ấy như cái gì giống như một vật-tự thân (không phải là hiện tượng), và gán cho nó một trực quan trí tuệ tương ứng (dù không phải là loại trực quan của chúng ta). | Như thế, dù là không thể nhận thức được đối với ta, ắt có ở đây một cơ sở hiện thực siêu-cảm tính dành cho giới Tự nhiên, mà bản thân ta cũng thuộc về giới Tự nhiên ấy. | Trong giới Tự nhiên ấy, ta [vừa] xem xét những gì là tất yếu ở trong Tự nhiên xét như đối tượng của giác quan dựa theo những định luật máy móc, nhưng [vừa] xem xét dựa theo những quy luật mục đích luận về sự nhất trí và thống nhất của những định luật đặc thù và những hình thức của nó – mà theo cơ chế máy móc, ta phải phán đoán một cách bất tất – xét như những đối tượng của lý tính (thậm chí cả toàn bộ giới Tự nhiên như là một Hệ thống). | Vậy, ta cần phải phán đoán về giới Tự nhiên dựa theo cả hai loại nguyên tắc khác nhau, trong đó phương cách giải thích cơ giới không bị phương cách mục đích luận loại bỏ như thể chúng mâu thuẫn với nhau. Từ đó ta có thể nhận ra một điều vốn thường dễ phỏng đoán nhưng rất khó chứng minh và khẳng quyết chắc chắn, đó là: nguyên tắc về một sự diễn dịch [hay diễn giải] có tính cơ giới về những sản phẩm tự nhiên hợp mục đích là có thể cùng tồn tại bên cạnh sự diễn dịch mục đích luận, đồng thời không hề cho phép ta không cần đến sự diễn dịch mục đích luận. | Nghĩa là: trong một sự vật mà ta phải phán đoán như là một mục đích tự nhiên (một thực thể hữu cơ, có tổ chức), ta phải tận lực tìm tòi mọi định luật đã biết lẫn còn phải khám phá về sự sản sinh có tính cơ giới và phải hy vọng sẽ có nhiều tiến bộ trong việc này, đồng thời không bao giờ có thể không cần đến một cơ sở hoàn toàn khác của sự sản sinh cho khả thể của một sản phẩm như thế, tức không bao giờ không cần cầu viện đến một tính nhân quả nhờ vào những mục đích. | Tuyệt nhiên không một lý tính nào của con người (cũng như không một lý tính hữu hạn nào giống lý tính của ta về chất và cho dù có vượt hơn ta về mức độ) có thể hy vọng hiểu được sự sản sinh kể cả của một ngọn cỏ chỉ bằng những nguyên nhân cơ giới đơn thuần. Về khả thể của một đối tượng như vậy, sự nối kết mục đích luận của các nguyên nhân và kết quả là hoàn toàn không thể thiếu được đối với năng lực phán đoán, kể cả trong việc nghiên cứu về nó chỉ bằng sự hướng dẫn của kinh nghiệm. | Vì lẽ những đối tượng bên ngoài xét như những hiện tượng không thể bắt gặp một cơ sở đầy đủ liên quan đến các mục đích, nên, cơ sở này, tuy nằm ở bên trong Tự nhiên, nhưng chỉ có thể được đi tìm ở trong cơ chất siêu-cảm tính (übersinnliches Substrat) của Tự nhiên, thế nhưng mọi nhận thức khả hữu của ta về nó đều bị cắt đứt. | Thế nên, ta tuyệt nhiên không thể nào khai thác được từ bản thân giới Tự nhiên những cơ sở cho việc giải thích về những sự nối kết hợp mục đích; và do đặc điểm cấu tạo của các quan năng nhận thức của con người, ta tất yếu phải đi tìm cơ sở tối cao cho những sự nối kết này ở trong một Giác tính nguyên thủy với tư cách là Nguyên nhân của thế giới.
§78 VỀ SỰ HỢP NHẤT GIỮA NGUYÊN TẮC CƠ GIỚI LUẬN PHỔ QUÁT CỦA VẬT CHẤT VỚI NGUYÊN TẮC MỤC ĐÍCH LUẬN TRONG “KỸ THUẬT CỦA TỰ NHIÊN” (TECHKIK DER NATUR) Điều vô cùng quan trọng đối với lý tính là không được đánh mất cơ chế [máy móc] của Tự nhiên ở trong những sản phẩm của nó, và, trong việc giải thích về chúng, không được bỏ qua cơ chế này, bởi, nếu không có cơ chế ấy, ta sẽ không thể đạt được tri thức nào hết về bản tính tự nhiên của những sự vật. Nếu ta lập tức thừa nhận rằng có một Kiến trúc sư tối cao [Đấng tạo hóa] đã trực tiếp sáng tạo ra những hình thức của giới Tự nhiên ngay từ đầu hay bảo rằng Đấng tạo hóa ấy đã tiền định những hình thức tiếp tục diễn ra trong Tự nhiên theo cùng một khuôn mẫu, nhận thức của ta về Tự nhiên ắt chẳng tăng tiến được chút gì. | Lý do là vì: ta không thể biết gì về phương thức hành động của Hữu thể ấy lẫn về những ý tưởng chứa đựng những nguyên tắc cho khả thể của những thực thể tự nhiên, và, không thể dùng chúng để giải thích giới Tự nhiên từ bên trên xuống (theo kiểu tiên nghiệm/a priori). Còn nếu đi từ dưới lên (theo kiểu hậu nghiệm/a posteriori), tức xuất phát từ những hình thức hình thức của những đối tượng của kinh nghiệm, ta mong muốn giải thích tính hợp mục đích mà ta tin rằng mình sẽ gặp được ở trong kinh nghiệm bằng cách viện đến một nguyên nhân hoạt động tương ứng với những mục đích, thì sự giải thích của ta hoàn toàn có tính lặp thừa (tautologisch)* và ta chỉ lừa dối lý tính bằng ngôn từ mà thôi. | Đó là chưa nói, với cách giải thích này, khi ta tự lạc lối vào trong cái siêu việt mà tri thức tự nhiên không thể nào theo kịp, lý tính ắt bị dẫn dắt vào con đường mơ mộng hão huyền, điều mà ý hướng và mục đích (Bestimmung)* tối thượng của lý tính phải biết tránh khỏi. Mặt khác, cũng cần thiết không kém là không được đơn giản bỏ qua châm ngôn của lý tính về việc sử dụng nguyên tắc về mục đích trong những sản phẩm của Tự nhiên. | Bởi vì, mặc dù nguyên tắc này không làm cho phương cách sản sinh của những sản phẩm ấy được dễ hiểu hơn chút nào, nhưng nó vẫn là một nguyên tắc trợ giúp nghiên cứu (heuristisch)** trong việc tìm tòi những định luật đặc thù của Tự nhiên; tất nhiên với điều kiện là không định dùng nó để giải thích bản thân giới Tự nhiên – trong việc này, ta thường vẫn chỉ nói về những mục đích tự nhiên, dù rõ ràng muốn lý giải một sự thống nhất hữu ý về mục đích –, nghĩa là, không tìm kiếm cơ sở cho khả thể của những định luật đặc thù này ở bên ngoài Tự nhiên. Nhưng, vì kỳ cùng ta cũng phải đi đến vấn đề này, nên lại cũng cần thiết phải suy tưởng cho Tự nhiên một loại tính nhân quả đặc biệt không biểu lộ chính mình ở bên trong Tự nhiên như cơ chế máy móc của những nguyên nhân tự nhiên. | Nghĩa là, bên cạnh tính thụ nhận (Rezeptivität) của nhiều hình thức khác nhau của vật chất thông qua cơ chế máy móc, phải được bổ sung thêm một tính tự khởi (Spontaneität) của một nguyên nhân (tất nhiên không thể là vật chất), vì nếu không có nguyên nhân này, ắt không nêu được cơ sở nào cho những hình thức ấy. Không nghi ngờ gì, lý tính, trước khi đi bước này, phải tiến hành hết sức thận trọng và không được ra sức giải thích mọi “kỹ thuật của Tự nhiên” – tức bất kỳ quan năng sản sinh nào của Tự nhiên cho thấy tính hợp mục đích trong hình thái của nó chỉ cho sự lĩnh hội của ta (chẳng hạn như nơi những cơ thể sống) – bằng cách mục đích luận, mà bao giờ cũng phải xem như là khả hữu một cách cơ giới trong chừng mực có thể được. | Nhưng, nếu vì thế mà muốn loại trừ hoàn toàn nguyên tắc mục đích luận và chỉ đơn thuần chạy theo cơ chế máy móc đơn thuần – trong những trường hợp mà việc nghiên cứu của lý tính về khả thể của những hình thức tự nhiên bằng các nguyên nhân của chúng cho thấy tính hợp mục đích là không thể phủ nhận được và rõ ràng có quan hệ với một loại tính nhân quả khác – thì tức là làm cho lý tính trở nên hoang đường, đẩy nó vào mớ bòng bong của những ảo ảnh về những năng lực tự nhiên không thể nào suy tưởng được, không khác gì việc làm cho lý tính trở thành mơ mộng hão huyền khi chỉ chạy theo phương cách giải thích đơn thuần mục đích luận, bất chấp cơ chế tự nhiên. Trong cùng một sự vật tự nhiên, cả hai nguyên tắc không thể được nối kết lại với nhau như là các mệnh đề cơ bản để giải thích (hay diễn dịch) cái này bằng cái kia được, nghĩa là, chúng không thể hợp nhất đối với năng lực phán đoán xác định như là các nguyên tắc có tính giáo điều và cấu tạo của việc tìm hiểu về Tự nhiên. Chẳng hạn, nếu tôi lựa chọn cách nhìn nhận rằng một con giòi là sản phẩm của cơ chế máy móc đơn thuần của chất liệu (của việc cấu tạo mới mẻ do chất liệu tự thực hiện khi các thành tố của nó bị thối rữa), thì tôi không thể suy diễn cùng một sản phẩm ấy từ cùng một chất liệu như là được tạo ra từ một tính nhân quả hoạt động theo các mục đích. Ngược lại, nếu tôi xem cùng một sản phẩm như là một mục đích tự nhiên, tôi không thể tính tới bất kỳ phương cách sản sinh cơ giới nào về nó, rồi xem đó như là nguyên tắc cấu tạo của năng lực phán đoán của tôi về khả thể của nó, và, do đó, hợp nhất cả hai nguyên tắc lại với nhau. Phương pháp giải thích này loại trừ phương pháp kia, kể cả khi giả định rằng, một cách khách quan, cả hai cơ sở cho khả thể của một sản phẩm như thế đều dựa trên một cơ sở duy nhất thì ta cũng không quan tâm đến cái cơ sở này. Nguyên tắc làm cho sự hợp nhất cả hai có thể có được khi phán đoán về Tự nhiên phải được đặt ở trong cái gì nằm bên ngoài cả hai (và do đó, nằm bên ngoài sự hình dung thường nghiệm-khả hữu về Tự nhiên) nhưng lại chứa đựng cơ sở cho chúng, đó là trong cái Siêu-cảm tính mà cả hai đều quy chiếu vào. Nhưng, về cái Siêu-cảm tính này, ta lại không thể có khái niệm nào ngoài khái niệm bất định về một cơ sở làm cho việc phán đoán về Tự nhiên bằng những định luật thường nghiệm có thể có được, nhưng ta không thể xác định nó chính xác hơn bằng bất kỳ thuộc tính nào cả. | Do đó, sự hợp nhất của cả hai nguyên tắc không thể dựa trên một cơ sở nhằm giải thích (Erklärung-Explikation) về khả thể của một sản phẩm dựa theo những định luật được cho đối với năng lực phán đoán xác định, mà chỉ dựa trên một cơ sở của việc trình bày hay khảo sát (Erörterung-Exposition) dành cho năng lực phán đoán phản tư. – Giải thích có nghĩa là rút ra từ một nguyên tắc, vì thế, ta phải biết rõ về nguyên tắc này và có thể nêu nó ra được. Tất nhiên, nguyên tắc về cơ chế [máy móc] của Tự nhiên và nguyên tắc về tính nhân quả của nó dựa theo những mục đích ở trong một và cùng một sản phẩm tự nhiên phải nối kết với nhau trong một nguyên tắc duy nhất, cao hơn, làm nguồn suối chung của chúng, bởi, nếu khác đi, chúng không thể tồn tại bên cạnh nhau ở trong việc quan sát về Tự nhiên. Nhưng, nếu nguyên tắc [cao hơn] này, một cách khách quan chung cho cả hai, – vì thế bảo đảm sự nối kết của các châm ngôn của việc nghiên cứu Tự nhiên dựa vào cả hai – phải là cái, dù có thể được chỉ ra, nhưng lại không thể được biết đến một cách xác định và được vạch ra một cách rõ ràng để sử dụng cho các trường hợp nảy sinh, nên, từ một nguyên tắc như thế, ta không thể rút ra sự giải thích nào cả, nghĩa là, không thể rút ra một cách rõ ràng, xác định về khả thể của sản phẩm tự nhiên tương ứng với hai nguyên tắc dị loại nói trên. Trong khi đó, nguyên tắc chung cho cả sự diễn dịch cơ giới lẫn mục đích luận chính là cái Siêu-cảm tính, phải được ta đặt làm nền móng cho Tự nhiên (Tự nhiên xét như là [tổng thể những] hiện tượng). Song, từ quan điểm lý thuyết, ta không thể hình thành một khái niệm có tính xác định và khẳng định tối thiểu nào cả về cái Siêu-cảm tính này. Vì thế, tuyệt nhiên không thể giải thích được bằng cách nào mà Tự nhiên (trong những định luật đặc thù của nó), dựa theo cái Siêu-cảm tính ấy như theo một nguyên tắc, lại tạo nên cho ta một Hệ thống có thể được nhận thức như là khả hữu hoặc bởi nguyên tắc của sự sản sinh cơ giới hoặc bởi nguyên tắc của sự sản sinh từ những nguyên nhân mục đích. | Nếu xảy ra tình huống: những đối tượng của Tự nhiên cho thấy rằng, xét về mặt khả thể của chúng, nếu ta chỉ dựa theo nguyên tắc của cơ chế máy móc (vốn luôn yêu sách đối với bất kỳ thực thể tự nhiên nào) thì không thể nào suy tưởng về chúng được mà không dựa vào các mệnh đề mục đích luận, thì ta chỉ có thể đề ra một giả thuyết mà thôi. | Đó là: ta giả định rằng ta có thể hy vọng tìm hiểu các định luật tự nhiên bằng cách quy chiếu đến cả hai nguyên tắc (dựa theo khả thể rằng sản phẩm ấy là có thể nhận thức được bằng nguyên tắc này hoặc nguyên tắc kia) mà không đụng phải vẻ mâu thuẫn nảy sinh giữa hai nguyên tắc phán đoán về chúng. | Bởi vì, chí ít vẫn được đảm bảo về khả năng là cả hai nguyên tắc đều có thể được hợp nhất một cách khách quan ở trong một nguyên tắc [chung], bởi cả hai đều liên quan đến những hiện tượng vốn cùng tiền-giả định một cơ sở siêu-cảm tính. Vậy, cơ chế [máy móc] và kỹ thuật mục đích luận (hữu ý) của Tự nhiên, đối với cùng một sản phẩm và khả thể của nó, có thể cùng phục tùng một nguyên tắc tối cao chung của Tự nhiên trong những định luật đặc thù. | Nhưng, vì lẽ nguyên tắc này là siêu việt (transzendent), nên, do sự giới hạn của giác tính chúng ta, ta không thể hợp nhất cả hai nguyên tắc trong việc giải thích về cùng một sự sản sinh tự nhiên, cho dù khả thể nội tại của sản phẩm này chỉ có hiểu được hay khả niệm (verständlich) thông qua một tính nhân quả dựa theo những mục đích (như trong trường hợp vật chất có tổ chức). Do đó, nguyên tắc trên đây của mục đích luận vẫn là: dựa theo đặc điểm cấu tạo của giác tính con người, không có nguyên nhân nào ngoài những nguyên nhân hành động một cách có chủ ý là có thể được giả định cho khả thể của những thực thể có tổ chức trong Tự nhiên; và, cơ chế máy móc đơn thuần của Tự nhiên không thể hoàn chỉnh để giải thích những sản phẩm này của nó. | Thế nhưng, ta lại không được mong muốn quyết định điều gì bằng mệnh đề cơ bản này về khả thể của bản thân những sự vật như thế. Do nguyên tắc này chỉ là một châm ngôn của năng lực phán đoán phản tư chứ không phải của năng lực phán đoán xác định, nên nó chỉ có giá trị một cách chủ quan cho ta mà thôi, chứ không có tính khách quan cho khả thể của bản thân những sự vật thuộc loại này (trong đó, cả hai loại sản sinh đều có thể kết hợp trong một và cùng một cơ sở). | Ngoài ra, bên cạnh phương pháp sản sinh được quan niệm theo kiểu mục đích luận không thể đồng thời có quan niệm nào về cơ chế máy móc của Tự nhiên để phán đoán về loại sản sinh này như một sản phẩm tự nhiên. | Do đó, tuy châm ngôn trên đây dẫn đến sự tất yếu của một việc hợp nhất cả hai nguyên tắc trong khi phán đoán về những sự vật như là những mục đích tự nhiên, nhưng không dẫn đến việc thay thế toàn bộ hay từng phần nguyên tắc này bằng nguyên tắc kia. Vì, nơi chỗ của những gì được suy tưởng (chí ít là bởi chúng ta) như là chỉ có thể có được là nhờ có mục đích hữu ý, ta không thể đặt cơ chế máy móc vào; và cũng thế, nơi chỗ của những gì được nhận thức như là tất yếu và máy móc, ta không thể đặt vào đấy tính bất tất, là cái gì vốn cần đến một mục đích làm cơ sở xác định, trái lại, ta chỉ có thể đặt cái này (cơ chế máy móc) vào dưới cái kia (kỹ thuật hữu ý), như là điều hoàn toàn có thể xảy ra dựa theo nguyên tắc siêu nghiệm của tính hợp mục đích của Tự nhiên. Bởi vì, ở đâu những mục đích được suy tưởng như là các cơ sở cho khả thể của một số sự vật nào đó, ta cũng phải giả định có những phương tiện, mà quy luật hành động của chúng tự mình không đòi hỏi phải tiền giả định một mục đích, – tức định luật cơ giới –, và phương tiện ấy có thể là một nguyên nhân phụ thuộc cho các kết quả có chủ ý. Vì thế, trong những sản phẩm hữu cơ của Tự nhiên, và nhất là do số lượng vô tận của chúng, ta giả định (hay chí ít cũng là một giả thuyết được cho phép) cái Hữu ý trong sự nối kết những nguyên nhân tự nhiên bằng những định luật đặc thù như là một nguyên lý phổ biến của năng lực phán đoán phản tư đối với toàn bộ giới Tự nhiên (Thế giới), ta có thể suy tưởng về một sự nối kết vĩ đại và thậm chí phổ biến giữa những định luật cơ giới và những quy luật mục đích luận trong các hành vi sản sinh của Tự nhiên mà vẫn không hề lẫn lộn các nguyên tắc để phán đoán chúng và thay nguyên tắc này vào chỗ của nguyên tắc kia. | Bởi vì, trong một sự phán đoán mục đích luận, vật chất hay chất liệu – cho dù hình thức của chất liệu này được xem như chỉ có thể có được nhờ mục đích hữu ý – vẫn có thể cứ tuân theo những định luật cơ giới của bản tính tự nhiên của nó, nhưng lại phục tùng như một phương tiện cho mục đích được hình dung. | Nhưng, vì lẽ cơ sở của sự tương hợp này không nằm trong cái này lẫn trong cái kia (tức cơ chế máy móc và sự nối kết hợp mục đích), mà là cái cơ chất siêu-cảm tính của Tự nhiên mà ta không có chút hiểu biết nào, nên cả hai phương thức hình dung về khả thể của những đối tượng như thế tất không phải được hợp nhất lại do lý tính của (con người) chúng ta. | Tuy nhiên, ta lại không thể phán đoán về khả thể của chúng bằng cách nào khác hơn là xem chúng dựa tối hậu vào một Giác tính tối cao trong việc nối kết những nguyên nhân mục đích; và với cách phán đoán như thế, phương pháp giải thích mục đích luận không hề bị loại bỏ. Còn đối với câu hỏi: cơ chế máy móc của Tự nhiên, với tư cách là phương tiện, đóng góp bao nhiêu vào cho mỗi mục đích hữu ý của Tự nhiên thì câu trả lời là bất định, và, đối với giác tính con người chúng ta, sẽ mãi mãi là bất định. | Tuy nhiên, căn cứ vào nguyên tắc khả niệm nói trên về khả thể của một giới Tự nhiên nói chung, ta có thể giả định rằng điều này là hoàn toàn khả hữu dựa theo hai loại quy luật nhất trí với nhau một cách phổ biến (quy luật vật lý và quy luật của nguyên nhân mục đích), mặc dù ta không thể nhận rõ được phương cách này diễn ra như thế nào. | Do đó, ta không biết phương pháp giải thích cơ giới khả hữu cho ta có thể mở rộng đến đâu. | Chỉ có điều chắc chắn là: ta càng đi xa đến đâu theo hướng này, ta càng thấy những sự vật được ta thừa nhận trước đây như là những mục đích tự nhiên là không đầy đủ; và vì thế, do đặc tính cấu tạo của giác tính chúng ta, ta phải đặt những cơ sở [cơ giới] này, một cách toàn bộ, vào dưới một nguyên tắc mục đích luận. Đây chính là nền móng để đặt trên đó một thẩm quyền ưu việt, và, do tầm quan trọng của việc nghiên cứu về Tự nhiên bằng nguyên tắc của cơ chế tự nhiên đối với việc sử dụng lý thuyết của lý tính chúng ta, đồng thời cũng là một sứ mệnh: ta phải nỗ lực giải thích mọi sản phẩm và diễn trình trong Tự nhiên, kể cả những gì có tính hợp mục đích nhất đi nữa, bằng cơ chế tự nhiên trong phạm vi tối đa của năng lực của ta (mà các giới hạn (Schranken)* của nó cũng không thể được xác định rạch ròi được trong loại nghiên cứu này). | Nhưng, đồng thời, ta cũng không bao giờ được phép quên rằng: những sự vật mà ta không thể tìm hiểu cách nào ngoài cách đặt chúng vào dưới khái niệm về một mục đích của lý tính, thì, phù hợp với căn tính của lý tính chúng ta, bất chấp những nguyên nhân cơ giới, đều rút cục phải được ta buộc chúng phục tùng tính nhân quả dựa theo những mục đích.
* “monothetic”: tạo thành một phía của nghịch đề (Antithetik) trong một nghịch lý (Antinomie). (N.D). * Epikur (342-271 tr. TL). ** Democritus (460-370 tr. TL) *** Spinoza (1632-1677)
* Ám chỉ luận điểm của Baumgarten trong Metaphysica/Siêu hình học, §98: “Concensus essentialium est perfectio (essentialis) transscendentalis” (latinh: sự thống nhất hay sự nhất trí về bản chất là sự hoàn hảo cơ bản (có tính bản chất). Dẫn theo Kant: AA XVII 47, xem thêm XXVIII 989-990 và XXIX 766. (theo Piero Giordanetti, bản Meiner, tr. 460). (N.D). * Có nghĩa là: một khái niệm rộng hơn được dùng như là một cái phổ biến để cái đặc thù có thể được “thâu gồm” vào bên dưới nó. Nhận thức từ các nguyên tắc, theo Kant, là tiến trình nhận biết cái đặc thù ở trong cái phổ biến nhờ vào các khái niệm. Đó là nhận thức có tính xác định (bestimmend), hay, có tính giáo điều (dogmatisch). (N.D). * Về sự phân biệt quen thuộc này giữa hai loại khái niệm: xem Kant, Phê phán Lý tính thuần túy, phần Biện chứng pháp siêu nghiệm: “Về các khái niệm của lý tính thuần túy”, B368. (N.D). * chữ: (“tức của một vị Thượng đế”) được Kant thêm vào cho ấn bản B và C (lần thứ hai và thứ ba). (N.D). * (bên ngoài khái niệm này): được Kant thêm vào cho ấn bản B và C. (N.D). ** Xem thêm “Các định đề của tư duy thường nghiệm nói chung” (Kant, Phê phán Lý tính thuần túy, B266 và tiếp), theo đó các phạm trù về hình thái (Modalität) như “khả năng”, “hiện thực”, “tất yếu” chỉ diễn tả mối quan hệ của chúng với quan năng nhận thức thôi chứ không làm tăng thêm hay mở rộng gì cho khái niệm nhằm xác định đối tượng cả. (N.D). * Xem Kant, Phê phán Lý tính thuần túy, B72: Phân biệt giữa trực quan của con người như là trực quan cảm tính, phái sinh (intuitus derivativus) với trực quan của thần thánh như là trực quan căn nguyên, trí tuệ (intuitus originarius). (N.D). * Câu trong ngoặc tròn ( ) là do Kant thêm vào cho các ấn bản B và C. (N.D). * Không gian chỉ là điều kiện mô thức của trực quan của chủ thể về những sự vật. Xem Kant, Phê phán Lý tính thuần túy. (Cảm năng học siêu nghiệm. Khảo sát siêu nghiệm về khái niệm không gian, B40 và tiếp). (N.D). * tức dùng nguyên nhân mục đích để giải thích tính hợp mục đích. (N.D). * Bestimmung: sự quy định, vận mệnh; ở đây, chúng tôi dịch là “ý hướng và mục đích” để có ý nhấn mạnh. (N.D). ** Heuristik: (nguyên gốc Hy Lạp: heurískein: phát hiện, tìm ra) chỉ nghệ thuật khám phá (La Tinh: “ars inveniendi”) tức môn học về các phương cách để giải quyết vấn đề, chứng minh hoặc bác bỏ những nội dung thường nghiệm hoặc không thường nghiệm của các khoa học. Môn học hỗ trợ khám phá này chỉ sử dụng các loại suy, phỏng đoán, các giả thiết làm việc, các mô hình… để thử tìm hiểu sự vật. Chẳng hạn, Kant sử dụng nguyên tắc về tính có mục đích, giả định các sự kiện trong tự nhiên đều ở trong mối quan hệ mục đích luận để nhờ đó tìm ra những định luật tự nhiên. Ngày nay, các nguyên tắc và phương pháp hỗ trợ khám phá (heuristische Prinzipien) vẫn được ưa chuộng và cũng chỉ có tính hỗ trợ, giả định mà thôi. (N.D). * Trong thuật ngữ của Kant, các giới hạn (Schranken) là biên độ có thể thay đổi của nhận thức con người, khác với “các ranh giới” (Grenzen) là phạm vi không thể vượt qua được của các quan năng nhận thức. (N.D). |
Ý KIẾN BẠN ĐỌC