GARY COX | ĐINH HỒNG PHÚC dịch || Châm ngôn thường được dùng để nói tóm gọn nguyên tắc cốt lõi của thuyết hiện sinh của Sartre. Hiện hữu (thế giới, tồn-tại-tự-mình) về mặt logic là có trước bản chất (tồn-tại-cho-mình, ý thức, ý niệm, ý nghĩa)
IVAN GOBRY | ĐINH HỒNG PHÚC dịch || Một trong những thể cách của tồn tại, một phương thức tồn tại của tồn tại. Có gốc từ động từ katégoréô, tôi khẳng định. Trước hết đây là thuật ngữ pháp lý: katégoréô, nghĩa là tố cáo, khiếu nại
GARY COX | ĐINH HỒNG PHÚC dịch || Tiếp nối Heidergger, Sartre cho rằng con người bị bỏ rơi trong thế giới này. Bị bỏ rơi không có nghĩa là con người bị cái gì đó hay ai đó ‘bỏ lại phía sau’ hay ‘lờ đi’
ĐINH HỒNG PHÚC dịch | Kiệt tác của Sartre, công trình triết học chính của ông. Tuy không phải là công trình dày nhất, khoảng độ hơn sáu trăm trang, nhưng nó là công trình quan trọng nhất và gây nhiều ảnh hưởng nhất.
ĐINH HỒNG PHÚC dịch | Sự vắng mặt hay thiếu vắng nói lên đặc trưng của hoàn cảnh cụ thể của một người nào đó, đối lập với sự vắng mặt hình thức, tức một ý niệm trừu tượng đơn thuần không liên quan gì đến hoàn cảnh
ĐINH HỒNG PHÚC dịch | Một hình thức của phân tâm học, do Sartre sáng lập, đặt trọng tâm vào việc khảo sát cặn kẽ lịch sử cá nhân của một con người để phát hiện ra bản tính của sự lựa chọn nền tảng độc nhất của anh ta về chính anh ta
GARY COX | ĐINH HỒNG PHÚC dịch || Sartre nhiều lần nhấn mạnh trong các công trình khác nhau rằng chịu trách nhiệm, khẳng định sự tự do và cố gắng đạt tới tính đích thực là tốt, trong khi đó ngụy tín trong các hình thức
ĐINH HỒNG PHÚC dịch || Trở lực hay nghịch cảnh của thế giới mà hành động tự do luôn nỗ lực vượt qua. Hoàn cảnh cụ thể của tồn-tại-cho-mình, gồm cả thân xác vật lý , nhờ đó tồn-tại-cho-mình phải lựa chọn
Thuộc về hay liên quan đến thuyết hiện sinh. Hiện hữu, hiện thực, thực tồn, cụ thể hay nhân vị đối lập với lý thuyết, hình thức, ý thể, trừu tượng hay phi nhân vị. Chính đáng, đích thực hay xác thực
ĐINH HỒNG PHÚC dịch | Nghĩa đen của chữ “siêu việt” là “trèo qua”, “vượt lên khỏi”, “bước qua”, “vượt qua”, “vượt quá”. Thuật ngữ “sự siêu việt” và thuật ngữ đối chọi với nó là “sự nội tại” (Immanenz/Anh: “immanence”) được Husserl tiếp thu
Nghiên cứu chủ yếu của Hegel về tồn tại, hư vô và trở thành xuất hiện trong Lôgíc học của ông. Ở đây, “tồn tại’ được sử dụng trong hai cách chủ yếu. Thứ nhất, tương phản với “bản chất” và “KHÁI NIỆM”, tồn tại là chủ đề của phần thứ nhất trong ba phần của Lôgíc học
Quan niệm của Hegel về chân lý nhất quán với các phương diện khác trong tư duy của ông: Chân lý của cái gì đó, dù là của tư tưởng hay sự vật, không tách bạch với giá trị hay ý nghĩa của nó. Một tác phẩm nghệ thuật “đúng thật/đích thực” cũng ipso facto là một tác phẩm hay, đẹp.
Khái niệm Substanz ở Hegel giữ một vai trò quan trọng trong nghiên cứu của ông về PHÁP QUYỀN và ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC. Một cộng đồng xã hội hay chính trị không thể chỉ gồm những chủ thể, những cá nhân luôn biết phản tư trong tư tưởng
Đối với Husserl, thuật ngữ “sự/tính nội tại” có nhiều nghĩa. Nó chủ yếu được dùng để chỉ phương cách trong đó ý thức, những kinh nghiệm sống trải và những đối tượng ý hướng được hiểu sau khi đã được giảm trừ hiện tượng học.
Cách hiểu của Kant về giáo hội có thể được đặt trong ngữ cảnh rộng của khoa giáo hội học Tin lành. Điều này trước hết liên quan đến những vấn đề về mối quan hệ giữa giáo hội với những tín đồ và với nhà nước. Cách xử lý của Kant về hai vấn đề này trong TG và SHHĐL cho thấy
Sự phân biệt giữa tính toán học và tính năng động còn có tầm ý nghĩa trong “Phân tích pháp về cái Cao cả” trong PPNLPĐ, ở đó sự khác biệt của “cái toán học” và “cái năng động” thay chỗ cho “bảng các phạm trù” được sử dụng trong “Phân tích pháp về cái Đẹp”.