ÉMILE BREHIER (1876-1952) | MAI VI PHÚC dịch || Hữu thể và thời gian (Sein und Zeil) của Martin Heidegger vào năm 1927, Hữu thể và hư vô của Jean Paul Sartre vào năm 1943, đó là những cái tựa của hai tác phẩm nền tảng
RENÉ DESCARTES (1596-1650) | Tôi có thể nói một cách thành thực rằng quy tắc chủ yếu mà tôi luôn tuân thủ trong học tập và tôi tin nó đã giúp tôi nhiều nhất trong việc tạo dựng kiến thức là chỉ dùng rất ít thời giờ hàng ngày vào việc tư duy theo trí tưởng tượng
RENÉ DESCARTES (1596-1650) | Quy tắc 1: Mục đích của học vấn phải nhằm chỉ đạo trí tuệ để có những suy xét vững chắc và đúng đắn về mọi việc mà nó cảm nhận
RENÉ DESCARTES (1596-1650) | Ngài hỏi tôi dựa trên quan hệ nhân quả nào mà Thượng đế đã tạo lập nên các chân lí vĩnh cửu (nguyên văn tiếng la-tinh: in quo genere causæ Deus disposuit æternas veritates).
RENÉ DESCARTES (1596-1650) | theo tôi, chắc chắn là khi có ánh sáng lớn trong lương tri thì cũng có thiên hướng lớn trong ý chí (ex magna luce in intellectu sequitur magna propensio in voluntate), cho nên khi ta thấy thật rõ ràng cái gì đó thích hợp với ta
VŨ ĐÌNH LƯU | Tạp chí Văn. 1964, số 25, tr. 23-42 || TƯ TƯỞNG Tây-phương hiện đại từ triết lý, văn chương đến nghệ thuật đang làm một cuộc thí nghiệm kỳ dị, cuộc thÍ nghiệm của một người khắc khoảI...
"BÀN VỀ MÂU THUẪN" | MAO TRẠCH ĐÔNG (1893-1976) | Mâu thuẫn tồn tại trong quá trình phát triển của tất cả mọi sự vật, mâu thuẫn quán xuyến từ đầu đến cuối quá trình phát triển của mỗi một sự vật, đó là tính phổ biến và tính tuyệt đối của mâu thuẫn,
"ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA NICOMAQUE" | "Q.1. ĐIỀU THIỆN VÀ HẠNH PHÚC" | ARISTOTLE (384-322 TCN) | Vì hạnh phúc là một hoạt động của tâm hồn phù hợp với một đức hạnh hoàn-toàn, chúng ta hãy nghiên cứu về đức hạnh.
"ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA NICOMAQUE" | "Q.1. ĐIỀU THIỆN VÀ HẠNH PHÚC" | ARISTOTLE (384-322 TCN) | Sau khi đã trình bày những chi tiết rõ-ràng ấy, chúng ta hãy xét xem hạnh-phúc có thuộc về hạng những cái đáng khen
ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA NICOMAQUE" | "Q.1. ĐIỀU THIỆN VÀ HẠNH PHÚC" | ARISTOTLE (384-322 TCN) | Chúng ta hãy bằng lòng với định nghĩa ấy về vấn đề ấy. Còn các biến-cố bất-kỳ xúc-phạm đến con cháu và tất cả thân-hữu của chúng ta
"ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA NICOMAQUE" | "Q.1. ĐIỀU THIỆN VÀ HẠNH PHÚC" | ARISTOTLE (384-322 TCN) | ậy có nên từ chối tuyên bố một người sung sướng trong thời kỳ còn sống và chờ đợi, theo lời khuyên của Solon], đời người ấy kết liễu hay không ?
"ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA NICOMAQUE" | "Q.1. ĐIỀU THIỆN VÀ HẠNH PHÚC" | ARISTOTLE (384-322 TCN) | Nhưng tới đây, có một vấn-đề làm bối-rối: hạnh-phúc có thể dạy được, thủ-đắc được do sự thông dụng hay sau một cuộc luyện tập ?
"ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA NICOMAQUE" | "Q.1. ĐIỀU THIỆN VÀ HẠNH PHÚC" | ARISTOTLE (384-322 TCN) | Vậy phải xem xét nguyên-tắc hạnh-phúc không những nhờ những kết luận của chúng ta và nhờ lý-luận về điểm ấy, nhưng còn nhờ dư luận thông-thường.
"ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA NICOMAQUE" | ARISTOTLE (384-322 TCN) | Nhưng, có lẽ, trong khi đồng ý rằng hạnh-phúc là điều tối thiện, người ta còn muốn một vài chi tiết rõ-ràng bổ khuyết.
"ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA NICOMAQUE" | ARISTOTLE (384-322 TCN) | Vả lại, điều thiện cũng có nhiều phạm trù như thực thể; thực vậy, là bản thể, điều thiện tối thượng gọi là Trời và trí-tuệ; là phẩm thì điều thiện là những đức hạnh
"ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA NICOMAQUE" | ARISTOTLE (384-322 TCN) | Sau khi nghị-luận lạc đề ấy, chúng ta hãy tiếp tục lý luận. Không phải là không có lý do mà mọi người, như ta thấy rõ, quan niệm điều thiện và hạnh phúc theo chính cuộc đời của họ.