Nhận thức luận | Khoa học luận

Sự tự cứu độ của Plotinus

NHỮNG NGUỒN GỐC CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG

10 11 12 13  
                           

SỰ TỰ CỨU ĐỘ (SOTERIOLOGY) CỦA PLOTINUS

 

LESZEK KOŁAKOWSKI (1927-2009)

Nguyễn Thị Minh dịch

Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính

 


Nguồn: Leszek Kołakowski. Main Currents of Marxism: Its Rise Growth and Dissolution. Volume 1, The Founders. Chapter 1: “The Origins of Dialectic”. Translated by P. S. Falla. Oxford University Press, 1978.


 

 

Plato và những người theo trường phái Plato đã đặt ra một câu hỏi bằng ngôn ngữ triết học, câu hỏi này bắt nguồn từ truyền thống tôn giáo và đã thâm nhập ảnh hưởng đến toàn bộ lịch sử văn minh châu Âu: liệu có chăng một phương thức cứu giúp cho trạng thái bất tất của con người? Liệu cuộc sống của con người có phải là một cuộc sống có tính bất tất không thể cứu vãn được, như tư tưởng của Lucretius và các nhà hiện sinh ngày nay vẫn quan niệm, hay con người, bất chấp tính nhị nguyên của mình vẫn có thể duy trì sợi dây liên hệ có khả năng được khám phá giữa mình với một Hữu thể không ngẫu nhiên và không bất tất, để con người có thể ấp ủ một niềm hy vọng về sự tự đồng nhất hóa của chính mình? Hay là, theo một cách nói khác, con người có thể được mời gọi hoặc được dành cho một đích đến là quay trở về với trạng thái tròn đầy viên mãn và thoát ly khỏi trạng thái bất tất của mình?

Với những người theo trường phái Plato, đặc biệt là Plotinus và thánh Augustine, tính bất túc của hiện hữu con người được thể hiện rõ ràng nhất ở đặc trưng thời tính – không phải chỉ ở sự kiện là con người có một khởi đầu trong thời gian, mà còn ở việc con người phải phục tùng tiến trình thời gian nói chung. Plotinus đi theo dòng tư tưởng bắt nguồn từ Parmenides, và mặc dù sự kiến tạo có tính trí tuệ của Plotinus đạt đến một cấp độ cao hơn quan niệm về Tồn tại của Parmenides (cái Tồn tại chỉ được Plotinus xem là cái thứ cấp so với cái Một hay cái Tuyệt đối), dù vậy, nhãn quan triết học của Plotinus về cơ bản vẫn không khác gì so với các bậc tiền bối của ông. Plotinus, không giống với trường phái Aristoteles khi rút ra cái tất yếu từ cái bất tất (ex contingente ad necessarium), tức  ông không cố gắng chỉ ra rằng thực tại của cái Một có thể được diễn dịch ra một cách chắc chắn từ sự quan sát những tồn tại hữu hạn như thể cái Một đó là một tiền đề logic cho sự hiện hữu của chúng. Thực tại của cái Một là không diễn tả được nhưng hiển nhiên, bởi vì theo ý nghĩa cơ bản nhất của nó, “tồn tại” là bất biến và tuyệt đối, là bất phân biệt và ở bên ngoài thời gian. Cái thực sự tồn tại thì không phục tùng thời gian, phục tùng sự phân biệt giữa quá khứ - tương lai. Nhưng ngược lại, những tồn tại hữu hạn và có điều kiện lại luôn di chuyển từ một quá khứ đã không còn tồn tại nữa đến một tương lai vẫn chưa tồn tại; chúng buộc phải nhìn bản thân mình từ góc độ quá khứ hoặc dự đoán; chúng không nhận biết bản ngã của mình một cách trực tiếp mà được trung giới bởi sự phân biệt giữa cái đã là và cái sẽ là. Chúng không thể tự đồng nhất theo nghĩa giản dị hay là “nhất thành bất biến” (tất cả trong một lúc): chúng sống trong một hiện tại sẽ tiêu biến đi ngay đúng lúc hình thành và vì thế chúng chỉ có thể được biểu lộ thông qua ký ức. Cái Một tự đồng nhất thực sự và vì thế nó không thể được hiểu một cách thích đáng bằng sự đối lập với thế giới vô thường, cái Một chỉ có thể được hiểu trong và thông qua chính nó (“Ta không thể nghĩ về cái Một như là cái di chuyển hướng về bất kỳ cái gì khác; Ngài giữ phương cách tồn tại của riêng mình trước bất kì một tồn tại nào; kể cả Tồn tại mà ta từ bỏ, và vì thế có liên hệ đến mọi tồn tại”: Enneads, vi. 8. 8.). “Chắc chắn là cái chưa bao giờ đi ra ngoài quỹ đạo của riêng mình, không uốn cong bản chất vốn là, là chính bản thân mình không thay đổi, là cái có thể nói một cách nghiêm ngặt nhất  là sở hữu chính tồn tại của mình” (tài liệu đã dẫn, 9) Ngược lại, những tồn tại có tính cách phức hợp thì không thể tự đồng nhất được, trong chừng mực bảo rằng nó hiện hữu là một chuyện, còn nói rằng nó “là” thế này hoặc thế kia lại là chuyện khác. Cái tồn tại đúng như là chính nó thì không tuân theo ngôn ngữ: cho dù ta gọi đó là cái Một, hay cái Tồn tại, thì đó cũng chỉ là những nỗ lực rất vụng về để cố gắng biểu đạt cái không thể biểu đạt; những ai thực sự trải nghiệm về cái Tồn tại này thì đều biết mình đang nói về cái gì, nhưng lại không bao giờ có thể nói ra một cách rành mạch để truyền thông cho nhau về trải nghiệm của mình được. Tác phẩm The Enneads xoay quanh sự dai dẳng vô tận xung quanh trực giác cơ bản về cái vượt quá khả năng nắm bắt của ngôn ngữ. Ta không thể nói rằng các vật thụ tạo hữu hạn đang “tồn tại”, vì chúng tiêu biến ở từng khoảnh khắc trong vòng đời của chúng và không thể tự nhận thức được bản thân mình như là một cái gì đó có tính đồng nhất, chúng bị bắt buộc phải tiến về phía trước hoặc lùi lại phía sau vượt ra ngoài bản thân để tự nhận thức được mình. Nhưng thuật ngữ “sự hiện hữu” cũng không thỏa đáng khi áp dụng cho cái Tuyệt đối, bởi lẽ trong ngôn ngữ thường nhật, thuật ngữ này được dùng để nói về một cái gì đó có thể được nắm bắt bằng khái niệm, trong khi cái Một hay cái Tuyệt đối không phải là một thực thể có khả năng được khái niệm hóa, nó không mang tính khái niệm. Lý tính của ta tiếp cận với cái Một bằng con đường phủ định, và với trí tuệ bất túc của mình, chúng ta chỉ có thể lĩnh hội nó như thể một cái gì đó khác hẳn về chất, khác biệt triệt để với thế giới của những sự thiếu sót và giới hạn - không chỉ là thế giới cảm tính của giác quan mà cả thế giới của những ý niệm thuần lý vĩnh cửu. Nhưng cách tiếp cận phủ định này lại là một tất yếu bất đắc dĩ và trong hiện thực sự vật là một cái gì đó hoàn toàn khác: nó là thế giới của những đối tượng vô thường, có tính phủ định, được đặc trưng bởi sự giới hạn và bởi việc nó có tham dự vào sự không tồn tại. Cái Một không phải là “cái gì đó”, vì “là cái gì đó” chỉ đơn thuần có nghĩa rằng không phải là một cái khác: “cái gì đó” được định nghĩa bằng những phẩm tính mà đối tượng sở hữu và đối lập với những phẩm tính mà nó không sở hữu. Là một cái gì đó tức là đã bị giới hạn, hay nói cách khác trong chừng mực nào đó tức là cái hư vô.

Sự hữu thể hóa (hypostases) thực tại bao nhiêu là bấy nhiêu những cấp độ của sự giáng cấp. Khi gọi cái Một là Tồn tại (hữu hình) hay trí tuệ (vô hình), với tư cách là một sự hữu thể hóa thứ cấp, điều này biểu đạt cái Một đã bị giáng cấp bởi tính đa thể hay tính phức hợp, bởi lẽ nó bao gồm quá trình cái gì đó tự nhận thức về chính mình và vì thế rơi vào một dạng nhị nguyên giữa kẻ nhận thức và cái được nhận thức (Ta không thể nói về sự nhận thức trong trường hợp cái Một, vì hành động nhận thức đó sẽ phân biệt chủ thể và đối tượng: Enn. v. 3.12-13 và v. 6. 2-4). Linh hồn, sự hữu thể hóa hay giáng cấp ở mức độ thứ ba, bao gồm tinh thần bị giáng cấp bởi sự tiếp xúc với thế giới vật lý, hay là sự tiếp xúc với cái ác hay cái phi hiện hữu. Vật chất, và những thân xác là những biểu hiện mang tính phẩm tính của nó, chính là cấp độ cuối cùng của sự giáng cấp, đại diện cho tính thụ động triệt để và không thể tự tồn hay tự mãn tự túc được: tức là nó không hoàn chỉnh, bị tước bỏ sự hài hòa, chẳng khác gì những cái bóng mờ nhạt, Tồn tại của chúng hầu như không khác với cái không-tồn tại hay hư vô (Enn. i. 8. 3-5). Mức độ suy giảm của sự hiện hữu được đo bằng sự hạ cấp từ cái nhất thể xuống cái đa thể (hay từ cái thống nhất sang cái đa tạp), từ sự bất động sang vận động và từ sự vĩnh hằng sang thời gian. Vận động  là sự giáng cấp của cái thanh tịnh , hoạt động là sự chiêm nghiệm bị suy yếu (Enn. iii. 8. 4), thời gian là cái suy bại và mục nát, một giáng cấp từ sự vĩnh hằng. Tinh thần con người chỉ có thể quan niệm được cái vĩnh cửu dựa vào khái niệm không phải-thời gian, nhưng trên thực tế, thời gian mới chính là cái không phải- vĩnh cửu, là một sự phủ định hay pha loãng  Tồn tại. Tồn tại trong thời gian có nghĩa là không tồn tại toàn vẹn cùng một lúc. Nói một cách nghiêm ngặt, theo như sự trình bày rắc rối của Enn. iii. 7, không phải là linh hồn ở trong thời gian mà ngược lại, thời gian ở trong linh hồn, bởi chính linh hồn đã tạo ra thời gian bằng cách liên hệ bản thân linh hồn với các đối tượng của giác quan. Định nghĩa của Plotinus về sự vĩnh cửu, đã dự báo trước cho ngôn ngữ trứ danh của tác phẩm Consolations của Boethius, đó là chính “Sự sống hằng có – một toàn thể hoàn chỉnh, toàn vẹn… thuộc về tính Hiện hữu Đích thực do bản thân sự hiện hữu của chính nó” (Enn. iii. 7. 3.). Sự sống hằng có thì không biết đến điều phân biệt giữa cái đã là và cái chưa là, và chính vì thế, nó đồng nhất với Tồn tại đích thực, bởi vì “tồn tại trong hiện thực” có nghĩa là “không bao giờ là không tồn tại” và “không bao giờ khác biệt”, có nghĩa là tự đồng nhất và bất biến (iii. 7.6).

Nhưng linh hồn bị  cầm tù trong sự  phù du tạm bợ, bị thúc đẩy không ngừng từ hư vô của cái đã là đến hư vô của cái sẽ là, rốt cuộc không bị kết án lưu đày bất tận.  Ennead thứ 6 không chỉ là một mô tả về khoảng cách vô tận giữa hiện thực tối cao và đời sống của tinh thần và giác quan, ngôn từ và khái niệm của chúng ta: mà nó còn chỉ ra con đường để ta có thể từ cuộc sống lưu đày quay trở về thống nhất với cái Tuyệt đối. Tuy nhiên, sự trở về này không phải là đề cao con người vượt lên khỏi trạng thái tự nhiên của mình (nói chung, ta không nên gán ghép quan niệm về cái siêu nhiên, siêu phàm vào trong tư tưởng Plotinus), mà đó là việc linh hồn quay trở về  với chính tự ngã của chính mình. “Bản tính của linh hồn không phải là chạn đến cái hư vô tuyệt đối; sự giáng cấp thấp nhất là rơi vào cái ác, và tới mức đó, là rơi vào không tồn tại; nhưng không bao giờ là rơi vào hư vô tuyệt đối. Khi linh hồn bắt đầu đi lên một lần nữa, nó không tiến tới một mục đích xa lạ nào mà là trở về với chính tự ngã của mình; vì thế, nó được tháo gỡ, nó không ở đâu khác ngoài bên trong chính mình” (Enn, vi. 9. 11). Ngay cả trong sự giáng cấp thấp nhất của mình, linh hồn vẫn không bị cắt đứt khỏi cội nguồn và luôn luôn được tự do quay trở lại. “Chúng ta đã không bị cắt rời, không bị chia tách, mặc dù bản tính thân xác vật chất bao bọc quanh ta và ép buộc ta trong chính nó; chúng ta hít thở và giữ được nền tảng của mình là bởi vì cái Tối cao không đến rồi đi mà mang đến một quà tặng vĩnh cửu, chừng nào nó vẫn còn giữ được chính mình” (vi. 9. 9). Con đường đi đến sự thống nhất không phải là sự truy cầu cái gì đó bên ngoài con người: mà ngược lại, nó bao hàm việc vứt bỏ mọi trói buộc của thực tại bên ngoài, trước hết là với thế giới vật lý và sau là với thế giới các ý niệm, để linh hồn có thể hiệp thông với cái đã cấu tạo nên tồn tại sâu thẳm bên trong nó. Các công trình của Plotinus không phải là một hệ thống siêu hình học, bởi lẽ ngôn ngữ không thể truyền tải được những chân lý quan trọng nhất; đó không phải là một  lý thuyết mà là một chỉ dẫn tinh thần, một hướng dẫn sử dụng cho những người khao khát giải phóng chính mình khỏi ràng buộc của cuộc sống tạm bợ, vô thường.

Plotinus, Iamblichus và những người theo phái Plato khác đã ảnh hưởng vừa trực tiếp và đến mức độ mà các ý tưởng của họ được các nhà tư tưởng Kito giáo sơ kỳ chấp nhận. Vì thế, quan niệm mà họ gieo rắc và chưa từng biến mất trong nền văn hóa của chúng ta chính là những hình thức trình bày rõ ràng bằng triết học về khao khát mơ mộng mang tính thi ca, thần thoại về một thiên đường đã mất và về lòng tin vào cái Một, cái Nhất thể hằng hữu (hằng có) – cái hiện diện cho con người không chỉ như một đấng sáng tạo hay một tồn tại tự mãn tự túc mà còn như một cái Thiện tối cao, như là sự thực hiện trọn vẹn mục đích cao cả nhất của con người và như một lời mời gọi con người về lại với chính mình. Các nhà triết học theo trường phái Plato làm cho triết học trở nên thân thuộc bằng các phạm trù diễn đạt sự khác biệt giữa hiện hữu thường nghiệm, kiện tính và hữu hạn với Tồn tại đích thực của con người, với sự tự đồng nhất và giải thoát mình khỏi trói buộc của thời gian: họ đã chỉ ra “quê hương đích thực” vượt ra ngoài hiện thực đời thường, nơi mà con người có thể là cái mà mình vốn đã thực sự là. Các phạm trù này giải thích quá trình giáng cấp và quá trình đi lên trở lại, sự khác biệt giữa tính bất tất của con người với Tồn tại đích thực của mình, và tìm kiếm cách thức làm thế nào để con người vượt qua được tính nhị nguyên này bằng nỗ lực tự thánh hóa. Họ từ chối chấp nhận tính bất tất như là số mệnh con người và tin rằng con đường được sắp xếp để mở ra cái Tuyệt đối.

Đồng thời, Plotinus cũng chỉ ra sự liên hệ giữa tính nhị nguyên của bản tính con người và sự giới hạn đã buộc con người phải xem thế giới đã được nhận thức là khác biệt một cách cơ bản với chính bản thân mình, khiến cho tư duy và tri giác của ta hướng về một vũ trụ xa lạ. Nếu ta có thể vượt qua được sự tha hóa của linh hồn khỏi chính mình (sự tha hóa bị áp đặt lên linh hồn bởi thời gian, bởi lẽ chúng ta chỉ có thể nhận biết chính mình ở thời điểm chúng ta đã không còn tồn tại, hoặc ở thời điểm mà chúng ta sẽ nhưng chưa tồn tại), thì ta cũng có thể vượt qua sự tha hóa giữa linh hồn và tất cả mọi thứ mà nó biết, yêu thích hay ham muốn. Plato viết ở một trong số những Bức thư của ông rằng “một người không có mối dây ràng buộc về sự giống nhau về mặt tính chất với đối tượng sẽ không đạt được cái nhìn thấu suốt thanh thản của sự lĩnh hội hoặc có được một trí nhớ đủ tốt; vì về cơ bản anh ta không chấp nhận đối tượng, như thể bản chất của đối tượng vô cùng xa lạ đối với anh ta” (Letter 7, 344a). Ngược lại, trong nhận thức đúng thật, chủ thể không chỉ đơn thuần hấp thụ thông tin về những thực tại vốn hoàn toàn xa lạ với mình: mà còn tham gia vào một sự tương tác mật thiết với đối tượng, và nhận thức này chính là phương thức trở thành (mode of becoming) thiện hảo hơn nhiều so với giai đoạn trước đó. Vì vậy, với Plato và những người theo trường phái Plato, sự thôi thúc của linh hồn để giải phóng mình khỏi tính bất tất bao gồm quá trình vượt bỏ sự tha hóa giữa linh hồn và những đối tượng của linh hồn. Bất kì điều gì khiến thế giới trở nên xa lạ và khác biệt một cách cơ bản với ta đều chính là nguyên nhân gây nên sự giới hạn, sự bất túc và bất toàn của chính bản thân ta. Tìm lại bản thân mình chính là làm cho thế giới lại trở thành của ta và là chính ta lần nữa, chính là hòa giải với thực tại. Sự thống nhất của chính bản thân ta biểu thị sự thống nhất của ta với thế giới, và con đường đi lên đến sự hiểu biết thì đồng nhất với sự khao khát của vũ trụ nói chung hướng đến cái Nhất thể đã bị đánh mất. Khi nói rằng tinh thần hữu hạn của con người là ánh sáng dẫn đường cho sự sáng tạo, cho logic, thì cũng có nghĩa là nói rằng sự vận động của tư tưởng ta hướng về thực tại cũng là một quá trình mà qua đó thực tại tìm kiếm lại sự tái hội nhập của chính nó. Cách nói này nghe như thể là một đoạn trình bày tư tưởng  Hegel, nhưng thực tế đây hoàn toàn phù hợp với  tư duy của Plotinus: “Phép biện chứng không bao hàm những lý thuyết và quy tắc trần trụi trống rỗng: nó  làm việc với những sự thật; Hiện hữu, có thể nói, chính là Chất liệu cho phép biện chứng hay ít nhất, phép biện chứng cũng được tiến hành một cách có phương pháp và hướng về Hiện hữu, phép biện chứng sở hữu chính mình và thống nhất chỉ trong một bước khái niệm lẫn thực tại” (Enn. I. 3. 5.). Vì cuộc phiêu lưu của vũ trụ là lịch sử của linh hồn, và hoạt động của linh hồn chính là tư duy logic, nên các ý niệm và thực tại có xu hướng hội tụ trong sự tiến hóa của chúng, và không còn có sự phân biệt nào giữa phép biện chứng và siêu hình học nữa. Tư duy, trong ý nghĩa thực sự của nó, là và phải  hướng về chính mình. “Nếu hoạt động trí tuệ được định hướng về một thứ gì đó bên ngoài thì nó sẽ là bất túc là và một sai lầm của trí tuệ” (Enn. V. 3. 13). 

Tóm lại: đối với Plotinus, thực tại đơn nhất duy nhất là cái gì tuyệt đối, không-bất tất, và đồng nhất với hiện hữu của chính nó. Sự bất tất của Tồn tại con người nằm ở sự kiện là bản chất thực sự của con người ở bên ngoài chính bản thân con người và phân biệt với cuộc sống thường nghiệm của con người,  thể hiện rõ ràng nhất trong sự phụ thuộc của đời sống thường nghiệm vào thời gian. Một sự trở về với tính không-bất tất có nghĩa là  một sự trở về thống nhất với cái Tuyệt đối theo cách thức không thể được xác định chặt chẽ hơn được nữa và cũng thực sự không thể biểu đạt được. Sự trở về đó bao gồm việc giải phóng khỏi sự trói buộc của thời gian, khiến cho ký ức không còn tồn tại nữa (Enn. IV. 4. 1). Tiến trình từ đó linh hồn giải phóng chính mình khỏi thời gian cũng giống với tiếntrình tiến hóa của toàn bộ thực tại từ một trạng thái có điều kiện đến một trạng thái vô điều kiện. Kết quả của quá trình này chính là việc xóa bỏ sự phân biệt giữa người biết và cái được biết; chủ thể và đối tượng lại được hợp nhất với nhau một lần nữa, và thế giới này không còn là nơi xa lạ mà linh hồn từ bên ngoài mở lối đi vào nữa.

 

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Mọi liên lạc và góp ý xin gửi về: dinhhongphuc2010@gmail.com.
Bản quyền: www.triethoc.edu.vn
Chịu trách nhiệm phát triển kỹ thuật: Công ty TNHH Công Nghệ Chuyển Giao Số Việt